Bóng cả – Truyện ngắn của Thu Huyền

“Thảo ơi, ông Biển đi lúc 10h tối nay rồi. Con sắp xếp về nhé!”.

Mẹ gọi điện chỉ kịp dặn vậy đã nghe đầu dây bên kia lao xao, là tiếng bố giục mọi người nhanh chân sang họp hậu cần. Tôi vừa cuống quýt gọi cho thằng Đạt vừa nhét vội mấy bộ quần áo vào ba lô rồi hớt hải ra đầu ngõ đứng chờ. Lúc nó tới gương mặt tôi đã đẫm nước.

Ông nội bảo ông Biển không phải gốc tích ở làng mà mãi tận miền ngược, năm chạy loạn người tứ xứ trôi lạc muôn phương mới dạt về đồng đất mình. Ông cũng mang họ Nguyễn nên vào ngày kết nghĩa anh em với ông nội tôi, ông nội đã báo cáo tổ tiên để ông được nhập vào chi họ Nguyễn Đình.

Sau cái lần thằng Đạt rướn người hái hoa bèo tây tặng “bạn gái hờ” rơi tòm xuống ao như quả mít rụng được ông Biển câu ếch về ngang qua vớt lên, dốc ngược người chạy một vòng quanh làng mới thông đường thở, ông dự thêm cái lễ nhận người thân nữa. Thằng Đạt gọi ông Biển là “ông nuôi”. Ông nuôi so với ông họ của tôi có vẻ gần thêm một bậc, thế nên nó mới táo tợn hỏi cái câu mà hai đứa vẫn giấu trong bụng, thi thoảng lôi ra nhấm nháp cùng lá dâu da cuốn muối.

“Sao ông không lấy vợ ạ?”

Ông Biển dừng tay vót nan, nghiêng đầu như lục lọi trí nhớ đã để quên đâu đó bảo hồi xưa ông cũng ưng một bà, anh Cả tức ông nội tôi đưa sang nhà dạm trầu cau thuốc lá rồi nhưng sau bà ấy trả lễ, theo một ông mới ở Nam về sang bên sông. Trời ơi, sao ông không giữ bà lại, lẽ ra ông phải quyết đấu tay đôi chứ. Thế bà đó có đẹp không? Đẹp gần nhất làng. Ông không trách bà hả? Trách gì, coi như có duyên nhưng chưa bén phận, với lại quyết định của bà ấy tao đâu có quyền can thiệp? Ông Biển cứ ở vậy, vừa làm đồng vừa mở quán tạp hóa, quấn quýt với tôi và thằng Đạt cho tới tuổi bảy mươi.

Bảy mươi tuổi ở quê tôi đã lên hàng bô lão, tức là công to việc lớn cứ nhường lớp trẻ còn mình ngồi im đợi ngày lên nóc tủ với ông bà. Từ ngày lớp U60 (trước vẫn gọi đùa là “thanh niên già”) đồng loạt lên lão, đầu làng cuối ngõ bỗng nhiên trầm lắng hẳn. Bà Thi không chạy chợ nữa à? Vợ chồng nó bảo tôi nghỉ, già rồi, ở nhà nấu cơm chăm cháu. Ông Học bỏ quay chậu cảnh hẳn luôn? Ờ, thôi để con cháu làm, già rồi. Nhà ông bà Xuyến mấy nay chở cát đá ra đồng làm gì đấy? Thằng lớn ở phố về đầu tư xây “chung cư đôi” đấy, già rồi, cứ thế là chắc văn chắn nhất.

Lại già!

Già giống như một căn bệnh. Nó ép người ta không được sống như cái lẽ người ta vẫn và muốn sống, giữ rịt đôi chân hãy còn mê xông pha, buộc đôi tay còn dở bao dự định phải buông xuống. Nó khiến những bà vẫn còn thích nói cười vang cả đoạn đường trở nên khép nép và những ông còn ưa đóng bộ com-lê vội thả áo xuề xòa kẻo bị nhắc khéo là già còn chưng diện. Nghiệt ngã nhất, nó bắt con tim người ta đập theo nhịp điệu khác dù rằng trái tim đó vẫn dồn dập khi lại gần một trái tim đồng điệu, tuy chẳng làm gì nên tội, họ sẽ chịu gièm pha khi dám mưu cầu một người bạn san sẻ vui buồn tuổi xế chiều.

Căn nhà ba gian ngột ngạt khói. Hai cửa sổ thông với vườn cụ Tư hàng xóm đã đóng kín rịt từ chiều càng khiến mùi thuốc của cánh đàn ông thêm nồng nặc. Thật lạ là trong không gian vẩn mịt mùng, tôi vẫn ngửi thấy và nhận ra sợi khói nhang mỏng manh từ ban thờ gia tiên uốn lượn quanh cuốn thư, vắt một đường cong bán nguyệt lên cây cột xà gỗ lim rồi buông nhẹ xuống đầu ghế li-văng, chỗ ông nội ngồi. Họ Nguyễn Đình nhà tôi neo người nhưng sống gần gũi dọc theo một con ngõ, rất thường xuyên tụ họp. Những dịp ấy, mẹ sẽ chuẩn bị sẵn khi thì nồi ngô luộc, đĩa lạc rang, lúc mấy quả ổi xanh, chùm khế rau chấm muối ớt. Ông nội lúc nào cũng ngồi đầu ghế li-văng, đợi khi lượt trà đầu tiên đượm giọng sẽ bắt đầu câu chuyện theo một cách rất từ tốn. Nhưng hôm nay ông ngồi im. Ông Biển, bố tôi, bố thằng Đạt, cả mấy chú cũng ngồi im. Sự nặng nề như chìm cả xuống đáy cốc trà, bay lên chỉ toàn là khói. Sau cùng, khi cô Thảo xuống bếp cời lửa để gầy thêm ấm nước thứ hai, bố mới kéo cái ghế đôn lại gần ông phá vỡ sự im lặng “Bố ạ…”

Bà nội tôi tên Cúc. Mẹ bảo nhà cụ ngoại xưa làm thuốc nam, lối vào nhà ngập tràn cúc tần nên lấy tên đặt cho con gái. Bà về với ông tôi năm mười sáu, sinh lần lượt hai trai, hai gái đã trọn vẹn chức vị dâu trưởng họ Nguyễn Đình, cũng hết bề săn sóc bố mẹ chồng và con cái những năm ông nội ngược xuôi Bắc Nam buôn bán. Bà nội mày số khổ, lúc cửa nhà khấm khá lên thì …Cụ Tư bỏm bẻm nhai trầu chỉ cái bể nước mưa rêu xanh đã leo lên tận tấm phản đậy bằng bốn thanh nứa kẹp vỏ bao xi măng cũng bong tróc và đổ màu ai ai như đất ải kể “hôm đó tầm chiều rồi nhưng nắng còn gắt lắm, cụ vừa kho xong niêu cá thì bà mày sang, bảo vừa ở ngoài đồng về, tự nhiên thèm nước mưa quá mà bể ở bên nhà đang để khơi chờ giông. Cụ mới lấy cái gáo dừa múc cho một gáo đầy, bà mày uống hết khen sao nước nhà cụ ngọt mát hơn cả bỏ đường. Rồi cụ xắn cho bát cá kho mang về, bà mày còn bảo ngoài làn có cái hoa chuối to lắm, chiều mai con chặt về biếu u nấu chạch. Ấy thế mà đêm hôm đó bà ấy đi. Lúc bố mày khóc bù lu sang gọi cổng cụ còn tưởng ngủ mơ chưa tỉnh…”.

Người làng vẫn bảo trong mấy đứa cháu tôi giống bà nhất. Thế nên cái đứa ông nội lúc nào cũng đặt sau xe đèo đi chơi khắp nơi không phải thằng Hạnh em trai tôi, cháu đích tôn sau này sẽ kế thừa hương hỏa dòng tộc mà là tôi, thi thoảng kèm thêm thằng Đạt. Tôi gặp bà Hòa lần đầu ở hội chùa. Ông tôi không mộ chùa chiền nhưng ông là người hay chữ, giỏi sắp đặt, bày biện nên các việc đình chùa miếu mạo của làng xã đều được mời một chân trong ban tổ chức. Bà Hòa nấu và đơm xôi rất khéo. Xôi oản bà đơm cái nào cũng đều tay, lá mít đặt xôi cắt tròn vừa khéo, sau khi dâng lễ xôi được tán lộc cho bà con trong làng đã hơi khô se lại nhưng miết vào vẫn dẻo, lại thơm đẫm mùi nhang trầm. Trẻ con chúng tôi mê xôi bà nấu còn hơn cả mấy món nước xanh đỏ vẫn bán ở các quầy hàng đầu cổng chùa. Chùa làng hội ba ngày, hai tối liền sân chùa mở chiếu chèo, có cả tiết mục văn nghệ giao lưu giữa các thôn. Thôn của bà Hòa đăng ký hai tiết mục, một của thanh thiếu niên, hai là của hội người cao tuổi. Dạo đó còn ưa lối hát chay, hát nhịp kèm trống để biểu diễn văn nghệ, bà Hòa hay nép mình bên cây đinh lăng phía đầu hồi nhà Mẫu vừa hát vừa cầm quạt làm hiệu chỉ huy đội múa nón. Tôi với thằng Đạt rủ nhau chen lên hàng đầu từ sớm. Dưới gần chục ngọn đèn treo lủng lẳng trên các cành bưởi, cành đại, trong những bộ áo dài đủ màu sắc, bà Thi vẫn bán quà vặt ở cổng trường cấp một, bà Nhiễu bán mắm đầu chợ Khô, mới lại gần đã nghe thoang thoảng mùi, bà Bình lúc nào cũng áo nâu sòng, đầu khăn vấn đèo bòng bốn năm đứa cháu, bà Sắc cả ngày im lìm vì tật nói lắp…như thay da đổi thịt. Tuy rằng cái uốn tay không còn đủ dẻo, đội hình thi thoảng xô lệch chệch nhịp nhưng các bà đều như trẻ lại, niềm vui lan ra từ ánh mắt tới nụ cười. Cứ như thể các bà mà tôi đang nhìn thấy trên sân khấu mới là bản thể chân chính còn những nhân dạng thường ngày chỉ là cái vỏ bị cuộc sống, tuổi tác, định kiến phơi nhuộm buộc phải khoác lên. Dù rằng lẫn trong đám đông tôi vẫn nghe quanh quất có tiếng nguýt dài, tiếng xì xèo “già mà còn đú”, “già còn ham hố văn nghệ văn gừng” nhưng khi bài múa nón kết thúc, tiếng vỗ tay bốn bề vẫn dậy lên như sấm. Tối về nằm bên mẹ, tôi hỏi sao thôn mình không có tiết mục của hội người cao tuổi như thôn bên. Mẹ bảo các bà thôn mình còn ngại, với lại lấy đâu ra người chủ trì, vận động, hướng dẫn. Đâu phải thôn nào cũng có người cần mẫn làm phong trào như bà Hòa.

Ông nội tôi mến bà Hòa. Tình cảm đó dè dặt, ý nhị như bông hoa nhài còn ướt sương ông hái thả vào ấm trà sáng, mới uống vào chưa nghe mùi, sau trà thấm xuống họng mới nhận ra trong cái đằm chát có vấn vương một vị thanh nhã rất tình. Bằng một lẽ tự nhiên nào đó, tôi nhận ra và chia sẻ với ông cả niềm ngạc nhiên, vui sướng cùng lo lắng. Tôi yêu mến những đốm sáng lung linh trong mắt ông bà khi cả hai cùng trò chuyện say sưa về kế hoạch sẽ trồng lại cây đa lịch sử, nơi ông Thấu-chiến sĩ cách mạng đầu tiên của làng tôi cắm ngọn cờ đỏ sao vàng, về dự định sẽ trồng hoa ven đường của hội phụ nữ và tổ chức cắm trại hè cho thanh thiếu nhi, nhưng cũng lại buồn so khi thấy ông bắt đầu thở dài nhiều hơn, có khi dành cả buổi sáng ngồi lặng ngắm di ảnh bà nội trên ban thờ. Những lúc ông dắt tôi ra mộ bà, khum tay nhặt những lá khô trên hai bụi cúc tần ông trồng ngay lối vào, gió thổi nỗi buồn và cả tự trách của ông bay tràn đồng Cái, vấn vít theo tiếng diều sáo véo von khắp trời cao rồi dội lại vang âm âm trong lồng ngực. Có đôi lúc ông ngẩng lên định nói với tôi câu gì nhưng kìm lại, khi tôi hỏi ông chỉ xua tay, nở một nụ cười thật hiền nhưng ánh mắt cứ loang loáng nước, lại cúi xuống mân mê bụi cúc tần như thôi miên.

Ông nội vẫn nặng lòng với bà tôi lắm. Và tình cảm ông dành cho bà Hòa cũng thật lòng. Tôi không thấy hai thứ đó có gì mẫu thuẫn vì tôi nghĩ trái tim con người ta sẽ rộng hơn khi có thêm người mình muốn quan tâm bảo vệ. Nhưng người lớn không nghĩ vậy. Làng bắt đầu xì xào. Một ông họ xa tít bên đằng ngoại của bà nội, người tôi chỉ gặp mặt duy nhất một lần trong lễ thọ bảy mươi tuổi của ông dựng xe đạp ở đầu ngõ, xăm xăm vào nhà và nói những câu cực kì khó nghe. Rằng việc ông nội tôi dám đi thêm bước nữa sẽ bôi tro trát trấu lên cả dòng tộc Nguyễn Đình. Rằng sao ông tôi đã già rồi mà còn xốn xang cái việc của cánh trẻ. Rằng đã ở vậy nuôi con gần bốn chục năm mà không cố nốt, giữ cái danh thơm đẹp sau còn cắp bỏ xuống mồ? Họ cố tình tước đi khát khao được bầu bạn và chia sẻ của ông tôi, nhu cầu chính đáng ở bất kì độ tuổi nào để quàng lên ông cái án tử “già rồi còn đổ đốn”. Họ mặc nhiên công nhận ở tuổi bảy mươi, đi cùng với tóc bạc da mồi, trái tim người ta sẽ teo tóp, khô cằn, dù sự thật nó vẫn dạt dào sức sống để đồng điệu với một đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú và mọi sự đi ngược với quy luật do chính họ định ra đều là bất thường. Bữa cơm nhà tôi cũng dần rơi rụng tiếng cười. Ông nội và bố mẹ lảng tránh ánh mắt nhau. Nhiều đêm bố trở mình liên tục trong tiếng mẹ khẽ rì rầm vừa như khuyên nhủ vừa như trải lòng. Rồi cả ông nội cũng lặng lẽ rời giường trong đêm, một mình ngồi sân thao thức tới sáng. Có hôm tôi lén dậy theo tựa cửa trông ra, nhìn bóng ông in trên tường bao, lặng im, cứng đờ như sáp dưới ngọn đèn nhập nhoạng mà lòng thắt lại.

Khi bao rối ren đang khuấy đảo gia đình, ông Biển trở thành chỗ dựa tin cậy cho mọi người. Sáng nào ông cũng tạt sang uống trà cùng ông nội, tiếng ông rền vang làm vơi đi cái u tịch của căn nhà mấy tháng nay ít tiếng nói cười. Buổi chiều mẹ đi làm đồng về ngang qua quán, ông vời lại, rủ rỉ, tỉ tê. Ông gọi bố qua nhà, nói là “ngồi lai rai với chú” nhưng mục đích là làm công tác tư tưởng, có hôm ông chả nói gì, chỉ ngồi cạnh thôi mà nét mặt bố cũng dãn ra ít nhiều.

Tối đó bố sang ông Biển muộn. Lúc ấy tôi với thằng Đạt đang ngồi học nhóm ở buồng trong. Nó suỵt tôi rồi ra dấu. Thế là hai đứa khẽ rời bàn, nhón thật nhẹ lên giường tre để tránh những tiếng kẽo kẹt rồi bậu vào cửa sổ nhìn ra sân như hai con thạch sùng. Tiếng ông Biển tráng ấm trà nghe lách cách trong đêm thanh tĩnh. Ông bảo:

-Tuấn ạ. Cái việc anh Cả muốn gắn bó với bà Hòa chẳng phải việc tay đình gì. Con người đâu phải cỏ cây, chúng ta sống tình cảm, đặc biệt là bố mày. Chị Cúc mất mấy chục năm rồi, anh ấy một mình gà trống nuôi bốn đứa con, đắng cay, tủi nhục, vất vả trong đó người ngoài không hiểu nhưng chắc mày hiểu hết. Bao năm vò võ thế, lắm người đã sần sạn như sành cắm bờ rào rồi. Tới nay anh ấy vẫn quý mến được người khác thì mày nên mừng.

-Nhưng bố con đã từng ấy tuổi …

-Thì đã sao? Đừng đổ cho tuổi tác. Già có cách yêu thương của người già. Người ta chả bảo “con chăm cha không bằng bà chăm ông” còn gì.

-Nhưng ông cũng có đâu cần…con xin lỗi, con không có ý…

Ông Biển vỗ nhẹ lên vai bố tôi:

-Tao khác, anh Cả khác. Lòng tao không được như tên, tên Biển đấy nhưng tâm hồn chỉ như cái ao tù, vẩn vơ với mấy con ốc, con cua, với bèo tấm, bèo tây là đã mãn nguyện. Tao sống như bây giờ là tao đã tạ ơn trời cao lắm rồi, không cần đòi hỏi thêm. Nhưng anh Cả là người hiểu biết, càng hiểu biết người ta lại càng nhiều tâm tình muốn chia sẻ. Trước đây có chị Cúc, giờ là bà Hòa. Với lại tao biết mày thực tâm không căm ghét gì việc anh Cả muốn gắn bó với bà Hòa đúng không? Đừng lo thiên hạ nghĩ gì con ạ, cứ sống không thẹn với lòng là được.

Tôi không nghe tiếng bố hay gió từ rặng bạch đàn ngoài sông thổi về đã cuốn lời bố bay đi. Sau này mẹ kể hôm đó về nhà bố với ông nội ngồi trò chuyện rất lâu, bố còn ôm ông khóc như đứa trẻ nhưng dặn chúng tôi coi như không biết kẻo bố ngại. Cái tính dễ ngại này chắc bố lây từ ông Biển. Lễ gắn bó của ông nội tôi với bà Hòa được tổ chức sau đấy ít lâu với sự tham dự đầy đủ của hai bên gia đình. Ông Biển đại diện họ nhà trai. Lúc được mời lên phát biểu mặt ông đỏ lựng, ông bảo ông chưa bị người ta nhìn chằm chặp bao giờ, đã thế còn biết bao con mắt. Tay ông run lẩy bẩy, may sao cái áo mới tay dài che bớt chứ không thì lộ hết. Lúc ngồi quạt cho hai đứa tôi học bài, ông bảo tiếc quá, ông có bao điều muốn nói mà lên đó tự dưng quên sạch, lúc ngồi xuống rồi mới nhớ ra, chả nhẽ lại giơ tay bảo gia đình cho tôi thêm ý kiến nữa. Giá mà có tờ giấy, gạch ý chính đàng hoàng thì ông đã chẳng nói lộn xộn như trộn bèo vào cám. Nói tới đó ông lại tự buồn, nhưng mà có tờ giấy ông cũng đâu biết đọc. Ông Biển không biết chữ. Ông bán hàng dựa vào trí nhớ, ví như gói mì tôm hảo hảo thì có màu hồng, gói mì gà nấm thì có màu tím. Nếu ai hỏi món nào lạ quá ông mở tủ cho tự lấy luôn. Ai mua chịu ông cũng cố nhớ, rồi nhờ tôi hoặc thằng Đạt ghi lại.

-Hay chúng con dạy ông?

Thằng Đạt bảo, dễ lắm ông ạ, ông học một năm là đọc báo vèo vèo.

Nói thì nói vậy nhưng việc học bao giờ chả gian nan. Bàn tay ông Biển quen vỡ đất, quăng chài nay cầm ngòi bút cứ cứng quèo sao sao đó. Nếu ông cầm ba đầu ngón tay, thế này nè ông, ông có thấy cái bìu ở ngón giữa con không, còn đây, thằng Đạt kéo lấy tay tôi, nó cầm bút bốn ngón nên cái bìu ở ngón áp út. Ông xem thuận cách nào thì ông cầm bút cách đó. Loay hoay một hồi cái bút trong tay ông trong mới đỡ ngả nghiêng một chút. Tôi biếu ông cuốn vở ô li mới tinh để tập viết. Ô năm dòng kẻ rõ ràng mà chữ ông cứ trèo đèo lội suối như người say rượu. Tôi động viên cứ từ từ ông ạ, hồi con mới tập còn viết xấu hơn ông, mẹ cứ nhè thước vào tay mà vụt. Ông Biển không bị ai vụt nhưng hôm nào trái gió trở trời, căn bệnh viêm đa khớp khiến tay ông sưng húp, đầu ngón tay, các khớp đỏ rực, mâng lên chẳng nắm vào được, cái bút cứ chực tuột ra rơi xuống nền nhà. Để viết được bài ông phải bóp rượu ngâm hạt gấc, rồi ngâm tay, xức dầu nên cuốn vở của ông cũng vương mùi thoảng thoảng. Trời hảnh lên, tay bớt đau dần, ông kê cái ghế đôn trước cửa quán hứng sáng tập viết say mê. Người vào mua hàng trêu “già sắp xuống lỗ rồi học hành làm gì cho khổ hả ông Biển”, ông đáp mà đầu không ngẩng lên “học chả bao giờ là muộn, tao già thì học kiểu người già, kệ tao”. Ông còn đặc biệt mua cái bút đỏ để tôi với thằng Đạt chấm bài. Có lần tụi tôi nương tay, chấm điểm mười để ông vui, ông đem bài đó cho ông nội xem rồi bảo “bọn nó thương em nên cho mười, chứ bài này chỉ chín thôi, anh xem cái chữ sờ nặng này em viết không sao đẹp được, rõ ràng là cái thế con mèo ngồi thẳng lưng mà sao em viết lại ra con mèo nằm sõng soài phơi nắng”. Bà Hòa tặng ông một bộ thẻ chữ cái nhỏ như bộ tú lơ khơ, ông quý lắm, lúc nào cũng mang theo bên người để ôn tập. Lần đầu tiên viết được đầy đủ họ tên mình ông Biển rơm rớm nước mắt. Ông bảo trước ông chỉ học vẹt thôi, để lên xã có cần ký giấy tờ gì thì ký, giờ biết đọc biết viết rồi mới cảm nhận được cái tên Nguyễn Đình Biển này là chỉ mình. Nguyên những trang vở đầu tiên ông nắn nót viết tên tất cả mọi người trong gia đình, trên đó có những có những vết nhòe, những đốm tròn hơi sẫm, thằng Đạt bảo chắc lúc viết ông khóc dữ lắm.

Sau một năm bà Hòa trở thành bà nội, cây đa lịch sử được trồng lại nhờ cuộc vận động của chi hội người cao tuổi liên thôn. Ông Biển đã đọc báo vanh vách. Ông còn được phỏng vấn trên đài phát thanh huyện như tấm gương sáng điển hình khuyến khích con cháu nêu cao tinh thần hiếu học. Quán tạp hóa của ông giờ đã có thêm dòng chữ “Thư viện vui vẻ”. Mới đầu ông tính để tên là thư viện họ Nguyễn Đình nhưng ông nội gợi ý nên lấy cái tên rộng hơn, kẻo con cháu họ khác ngại không dám tới. Tủ sách cao hơn hai mét của ông nội cũng được khiêng sang góp chung vào thư viện. Bố tìm được mấy mối bán sách cũ, rồi cả mấy nhà ve chai mua lại được biết bao đầu sách hay. Con trai út của bà Hòa làm ở bưu điện tỉnh cũng gửi về đóng góp rất nhiều báo thiếu nhi, còn có cả mấy bộ sách giáo khoa mới cho em học sinh nào khó khăn thì mượn về dùng, hết năm học thì gửi lại. Nghỉ hè trẻ con trong làng tuy vẫn ham đi đày nắng, tắm sông, đã biết ghé thư viện mượn sách về đọc. Năm đó tôi với thằng Đạt từ quãng giữa vươn lên tóp đầu của lớp cũng nhờ công lớn của thư viện vui vẻ này.

Hai năm sau nữa, thôn tôi đã có tiết mục văn nghệ của hội người cao tuổi những dịp hội chùa. Như người làng vẫn bảo, từ cái dấu mốc bảy mươi tuổi đi lấy vợ của ông trưởng họ Nguyễn Đình, rồi bảy mươi tuổi mới bắt đầu học ghép chữ đánh vần của ông Biển tới cái thư viện cộng đồng được lên hẳn bản tin thời sự tỉnh, đời sống tinh thần của người cao tuổi quê tôi đã thay đổi nhiều. Tôi thấy ở đó một tinh thần mới, một sự dấn thân, lăn xả mới để làm đẹp cho đời, cho quê hương bản quán. Không còn những ông bà ngồi ủ ê trước cổng mỗi chiều, đổi lại là tiếng cười ngập tràn trên sân bóng chuyền hơi, của hội cầu lông, bóng bàn ở nhà văn hóa thôn, là tiếng gọi nhau đi tập thể dục buổi sáng, là những hôm cầm chổi rễ đi vệ sinh ngõ xóm, xách xô chậu đi tưới nước chăm hoa dọc đường làng. Và ở đó vẫn có những ý tưởng táo bạo khiến lớp trẻ chúng tôi phải giật mình trầm trồ khâm phục.

Lúc đó tôi đang học năm hai đại học. Mẹ gọi điện lên bảo cuối tuần sắp xếp về nhà, có việc quan trọng nghe con. Thằng Đạt cũng nhận cái tin nhắn y chang. Nó bảo “hay tao với mày sắp có bà nội mới” làm tôi chứ chộn rộn suốt quãng đường về. Bao năm họ Nguyễn Đình nhà tôi vẫn gắn bó quây quần như vậy. Bà Hòa ngồi cạnh mẹ, con gái út cô Thảo ngủ thiu thiu trên tay bà. Ông nội tôi vẫn ngồi đầu ghế li-văng nhưng hôm nay ông chỉ nói đôi lời còn lại nhường cho ông Biển. Ông Biển của chúng tôi giờ không còn hơi tí là đỏ mặt như xưa nữa. Ông đã là trưởng tổ hòa giải của hội người cao tuổi liên thôn, quen lắng nghe và trả lời những câu lắt léo, làm dịu bao cuộc cãi vã và hàn gắn nhiều trường hợp tưởng chừng đã bế tắc tới nơi. Trong đám cháu chỉ có tôi và thằng Đạt là đang đại học. Ông bảo ông muốn nghe ý kiến của hai đứa. Tôi thấy ông nói trang trọng quá nên chẳng dám bông đùa, tới thằng Đạt hay tếu táo cũng  ngồi thẳng lưng nghiêm túc hẳn.

-Ông muốn làm trang trại nấm, hai đứa nghĩ sao?

-Sao lại là nấm ạ?

– Ông đọc trong sách, các nhà khoa học đã chỉ ra trung bình cứ một tấn lúa có 1,2 tấn rơm. Quê mình là quê lúa, tài nguyên rơm rạ đầy đồng, dân ta đang rủ nhau đốt tiền mà không biết. Làm nấm vừa tạo ra kinh tế lại vừa bảo vệ được môi trường.

-Nhưng ông có biết kĩ thuật không?

-Vừa rồi huyện có đợt tập huấn về trồng nấm, bố con tham gia rồi. Hơn nữa, con dâu chị Hòa làm bên sở nông nghiệp có thể hỗ trợ ta mặt này. Vốn thì đại gia đình ta mỗi người góp một ít, phần thiếu ông sẽ vay ngân hàng.

Tối đó, khi mọi người đã về hết, tôi cùng bố pha trà ngồi ngắm trăng nói chuyện tới nửa đêm. Bố bảo ông Biển tâm huyết với kế hoạch này lắm. Ông vốn nặng lòng với mảnh đất đã cưu mang dung dưỡng mình. Có những chiều ngồi nhìn khói vần vũ khắp đồng sau vụ gặt, ông bảo bố tao thương bầu trời quê mình quá Tuấn ạ. Bao năm qua ông không dám đốt một cọng rơm nào, cứ cần mẫn dập vào góc ruộng ủ phân, không thì gánh về thả xuống ao nuôi cá trắm. Ngày trước dân mình còn nghèo, còn đun bếp rạ, nuôi trâu bò thì rơm rạ còn quý. Bây giờ nhà nào cũng bếp ga, trâu bò không có, rơm rạ thành của nợ, không đốt bỏ thì chả biết làm gì. Mới mùa trước thôi, xe khách V.L qua làng gây tai nạn, lái xe khai trên công an là do hai bên đồng đốt rơm rạ khói quá, cản trở tầm nhìn nên không thấy được xe máy trước mặt. Vụ mùa ngày xưa thơm mùi rơm mới chứ mùa bây giờ chỉ ngằn ngặt khói, gió đông về là đánh thẳng vào làng, nhà nào cũng kéo cửa kín mít, chỉ khổ người già và trẻ nhỏ, hệ hô hấp đã yếu, hít vào có khác nào hít độc. Bố mới nghĩ được tới thế, nói ra còn thua xa ông Biển nhà mình, hăng hái tìm cách xử lý ngay. Bố bàn với mẹ rồi, nếu trại nấm mà thành thì ta mừng, còn nếu lỡ…thì nhà mình, nhà thằng Đạt cùng san phần lỗ, chứ không để ông phải lo nghĩ.

Máy cuốn rơm được mua về. Ông Biển dán thông báo thu mua rơm ra của bà con trong xã ở cửa quán tạp hóa rồi nhờ loa phát thanh thông báo bản tin tới cả các xã bên. Dân làng tò mò kéo tới nhà tôi hỏi chuyện. Bố trình bày rõ ràng, gia đình con triển khai làm nấm, từ giờ ông bà anh chị đừng đốt nữa, để rơm khô sạch nhà con thu mua hết. Vụ gom rơm bắt đầu từ tháng tư kéo dài tới hết tháng mười, bố với các chú hành quân khắp các đồng, có khi sang cả tỉnh bạn. Từng cuộn rơm tròn được sấy khô, ép thành khối nặng gần hai chục cân xếp chồng ngút ngàn trên các xe tải lũ lượt dồn về. Một phần rơm được bán cho các trại chăn nuôi, các hộ làm vườn giữ ẩm cây cảnh, phần còn lại để trồng nấm. Lâu lắm rồi, ông Biển xúc động nói, đồng mình mới tịnh không ngọn khói.

Lứa nấm đầu tiên bị nhiễm mốc, gần thu hoạch thì lốm đốm xanh như trứng chim cút, mọi người đành cắn răng bỏ đi hết. Rồi lại lao vào tìm hiểu nguyên nhân, bố thân chinh đi “tu nghiệp” ở trang trại nấm nổi tiếng học hỏi kĩ thuật, ông bà an ủi động viên nhau. Lúc máy cuốn lăn ra hỏng, dân làng ủng hộ bảo nhau dùng cào sắt, được nắng thì cào rơm ra phơi, rồi gom lại chất lên xe bán tải nhỏ chở về kho lưu giúp. Vượt qua rất nhiều khó khăn, dần dần trang trại nấm mới vào quỹ đạo. Ban đầu chỉ sản xuất được nấm sò, nấm rơm, sau đã thành công trồng được nấm đùi gà, nấm linh chi đạt hạng ba sao OCOP cấp tỉnh. Thằng Đạt tự làm một trang web giới thiệu, quảng bá sản phẩm lên nhiều nền tảng số, thương hiệu nấm hữu cơ ông Biển càng được biết đến rộng rãi hơn. Ông Biển bảo tôi thế là ông trả được một phần nợ ân tình với đồng đất mình rồi. Còn phần nữa ông phải nhờ tới lớp trẻ như hai đứa.

Di chúc của ông được bố đọc công khai trước lễ truy điệu. Ngôi nhà hiện tại được giữ nguyên để làm thư viện cộng đồng giao cho bố tôi quản lý. Phần lãi của trang trại nấm mấy năm nay ông gửi hết ngân hàng, nay xin được ủy quyền cho gia đình ủng hộ dự án cải tạo ao làng thành bể bơi miễn phí. Nghe bố đọc ai cũng lặng đi.

Qua lễ cúng một trăm ngày của ông Biển, công trình cải tạo ao làng bắt đầu khởi công. Kĩ sư trưởng, nhà tài trợ kim cương là anh Chinh, người làng, khách ruột của thư viện vui vẻ năm xưa. Hội người cao tuổi ngoài ủng hộ kinh phí còn tích cực kêu gọi con cháu địa phương và xa quê đóng góp. Tôi với thằng Đạt lập một nhóm Zalo, thông báo tới bè bạn cùng trang lứa trong xã, ngoài mong đợi là ai cũng hào hứng ủng hộ. Tiếc là ông Biển không được chứng kiến ngày bể bơi hoàn thành…

-Kiểu gì ông cũng về, thằng Đạt bảo, bây giờ ông đi mây về gió, sao mà quên dịp vui của làng mình được?

-Ừ nhỉ? Có khi giờ ông Biển đang ở nơi nào đó sáng tác thơ mừng rồi cũng nên…

Nói tới đây cả hai đứa cùng bật cười rồi nheo mắt nhìn bầu trời sau vụ chiêm xuân cao xanh ngắt. Gió từ đồng thổi về làng không còn vương mùi khói mà có mùi rơm, mùi nắng và mùi đất hân hoan.