Ông Thụ là công chức ngành Bưu điện nghỉ hưu đã 5 năm nay. Khi còn công tác, mọi người trong cơ quan nhận xét ông là người trầm tính, sống khép mình, không hay bộc lộ cảm xúc ra bên ngoài. Bản thân ông cũng thấy vậy. Từ ngày nghỉ hưu, cách sống của ông không có gì thay đổi mà có khi còn trầm lắng hơn. 2 năm đầu về nghỉ hưu ông không thường xuyên tập thể đục nhưng 3 năm nay ông bắt đầu tập thể dục đều đặn vào mỗi buổi sáng. Chỉ hôm nào trời mưa, mệt hay đi vắng ông mới nghỉ tập. Mùa hè ông dậy lúc 5 giờ, mùa đông là năm rưỡi, hôm nào trời rét đậm thì 6 giờ. Ông vốn bị áp huyết cao nên bác sĩ khuyên tập các bài thể dục nhẹ nhàng và đi bộ. Ông chọn cách tập thể dục ở ngay sân nhà.
* * *
Nhà ông nằm kề con ngõ nhỏ và ngắn của khu dân cư ngoại ô Thành phố Hạ Long (tên mới là Phường Hạ Long). Con ngõ trước đây vốn là đoạn đường tắt tự phát đi ra Quốc lộ 18. Sau này thêm mấy hộ dân đến ở mới cùng nhau kiếm gạch, đá vụn, xỉ than, xỉ vôi đầm cẩn thận, làm thành con ngõ đẹp như bây giờ. Hằng ngày, tầm từ sáng sớm đến trước 7 giờ con ngõ vắng người qua lại. Ba năm, với hơn một ngàn buổi sáng tập thể dục, trong cái không gian nhỏ bé, tĩnh lặng của mảnh sân và đoạn con ngõ qua nhà, ông cũng đã quen mặt 4 người. Họ là 4 cuộc đời, 4 số phận ông không hề quen biết. Đã hơn một ngàn buổi sáng sớm ông thấy họ, mùa hè cũng như mùa đông cứ đều đặn đi ngang qua cổng nhà ông với một khung thời gian gần như cố định. Đầu tiên là một phụ nữ ngoài ba mươi tuổi, có gương mặt ưa nhìn, mùa hè thì khoảng tầm từ 5 giờ đến 5 giờ 10, mùa đông là tầm 5 rưỡi, lầm lũi đạp xe đạp chở mấy cái bao dứa. Tiếp đến, mùa hè cũng như mùa đông lúc tầm hơn 6 giờ là một phụ nữ tuổi trạc 40, nét mặt trông buồn buồn, dáng vẻ công chức, xách chiếc túi màu vàng cam. Còn kể cả mùa hè hay mùa đông thì cứ tầm hơn 6 giờ một chút là một cậu thanh niên, trạc trên 30 tuổi, ăn mặc xoành xoàng, đi chiếc xe máy Honda cũ, phóng qua. Sau cùng thì mùa nào cũng vậy, cứ khoảng gần 6 rưỡi, lúc ông sắp nghỉ buổi tập là một phụ nữ chừng ba nhăm, vẻ mặt khắc khổ, đội chiếc mũ màu xám, vai khoắc chiếc túi màu đen, đi những bước vội vã.. Bốn gương mặt ấy đã vô tình trở lên quen thuộc với ông. Đến nỗi, khi mỗi người trong số họ đi ngang qua, ông biết ngay lúc đó là độ mấy giờ. Hôm nào một hoặc hai trong số họ không đi qua là ông lại như có ý trông ngóng và liếc nhìn đồng hồ xem đã tập được bao lâu. Nhưng hơn nửa tháng nay, những buổi sáng sớm tập thể dục, ông để ý thấy vắng hẳn 2 người. Thoạt đầu là chị phụ nữ nét mặt buồn buồn, xách chiếc túi màu vàng cam, rồi cách một tuần sau là cậu thanh niên đi xe máy. Đã có điều gì đó xẩy ra với họ? Ông thoáng nghĩ vậy nhưng chẳng mấy bận tâm bởi họ cũng chỉ là những người qua đường không quen biết. Cho đến cách đây vài hôm có việc đi qua quán nước ông Bảo ở gần nhà là công chức ngành in nghỉ hưu trước ông một năm, gọi mời vào chơi, qua nghe chuyện trò của khách hàng với ông Bảo, tình cờ ông mới biết cậu thanh niên mỗi sáng phóng xe máy qua cổng làm nghề xe ôm, cứ tầm giờ ấy đi ra Quốc lộ 18 đón khách nhưng mới đây bị mất cắp xe máy. Nhà cậu này ở tổ 6. Cô vợ bán hàng thuê cho một cửa hàng đồ gỗ ở trung tâm thành phố, có đứa con trai đầu bị khuyết tật, đẻ 2 đứa sau toàn gái. Còn chị phụ nữ vẻ mặt buồn buồn, nhà cũng ở tổ 6, ly dị chồng 5 năm nay, nuôi 2 đứa con, làm nhân viên văn phòng của một công ty chế biến thực phẩm phía tây thành phố nên sáng nào cũng phải đi sớm ra Quốc lộ 18 đón xe buýt cho kịp giờ. Nửa tháng nay chị phải nghỉ việc để đi chăm con ốm nặng đang điều trị ở Bệnh viên Nhi Trung ương. Ông còn biết cả chị phụ nữ khoác chiếc túi đen, nét mặt khắc khổ, đi những bước vội vã là người bán vé số dạo. Chị này cùng chồng quê Thanh Hóa ra đây làm ăn, thuê nhà ở tổ 5. Chồng đi phụ xây và bốc vác thuê. Mỗi sáng, vào khoảng giờ đấy chị qua cổng nhà ông là trên đường ra trung tâm thành phố, nơi nhiều nhà hàng, đông khách ăn sáng, dễ có cơ hội bán được nhiều vé..Rời quán nước, mang theo những chuyện buồn của họ, không hiểu sao trong lòng ông đầy tâm trạng. Thời gian vẫn âm thầm trôi, mỗi buổi sáng đi qua cổng nhà ông, giờ chỉ còn người phụ nữ lầm lũi đạp xe đạp, chở mấy cái bao dứa và chị bán vé số dạo… Nhưng rồi, 3 ngày nay ông cũng không thấy người phụ nữ lầm lũi đạp xe đạp chở mấy cái bao dứa ấy đi ngang qua cổng nhà ông nữa. Sự vắng mặt của họ trong con ngõ nhỏ vào mỗi buổi sáng sớm làm cho ông cảm thấy những buổi tập thể dục của mình như trở nên đơn điệu…
* * *
Tầm 10 giờ sáng bà nhà ông đi đâu về bảo trưa hôm kìa ở tổ 7 có nhà cô Hương bị cháy, may mà 2 đứa con đi học nên không làm sao nhưng đồ đạc thì cháy sạch. Bà còn kể nhà cô này thuộc diện nghèo nhất khu phố mình. Ba năm trước chồng mất vì tai nạn giao thông, mình cô bươn chải nuôi 2 đứa con thơ dại. Cách đây 10 năm, vợ chồng cô dắt díu nhau từ vùng quê Nam Định ra Đất Mỏ làm ăn. Chồng ngày ngày theo nhóm bạn đi xây, vợ thì sắm chiếc xe đạp cũ sáng sớm đi mua cất rau ở chợ đầu mối ngoài gần trung tâm thành phố đem về bán lẻ tại nhà và bán ở chợ cóc trong ngõ. Tằn tiện chi tiêu, vợ chồng cũng mua được mảnh đất xây căn nhà cấp 4 ở sát chân đồi khu dân cư mới Khe Mây, hình thành khoảng hơn mười năm năm nay, thuộc địa bàn khu phố 5. Từ nhà ông đến đó, đi bộ cũng chỉ gần nửa tiếng đồng hồ.
Ăn cơm trưa xong bà vội mở tủ lấy ra mấy bộ quần áo mua cho mấy đứa cháu nội, ngoại nhưng bố, mẹ chúng, đứa chê rộng, đứa chê chật bà đem cất đi, nay mang cho bọn trẻ con cô Hương mặc. Bà gói quần áo cẩn thận vào túi nilon rồi để ở đầu giường. Bà nói với ông: “Mấy bà hưu trí ở tổ phụ nữ gần đấy rủ nhau đi thăm hỏi cả rồi, thế mà tổ ta hôm nay mới biết. Tôi với bà Thành, bà Tảo hẹn nhau tối nay đến thăm mẹ con cô ấy. Mấy bộ quần áo này chắc bọn trẻ mặc vừa vì cùng lứa tuổi với cái Thoa, thằng Khánh nhà mình. Rõ tội nghiệp!”.
Một giờ chiều, bỗng chuông máy điện thoại của bà để ở bàn uống nước réo lên. Ông đang thiu thiu ngủ, vội choàng dậy thì bà làm gì đó ngoài sân đã chạy vội vào nghe. Một lát sau, ông nghe thấy tiếng bà nói: “Ừ, ừ.. Biết rồi, mẹ lên ngay!”. Ông chưa kịp hỏi chuyện gì thì bà bảo: “Con bé Ly lại sốt không đi mẫu giáo được. Mẹ nó nhắn tôi phải lên ngay chiều nay giúp trông con bé. Mai là thứ Hai nó còn đi làm. Chồng nó đi công tác Sơn La mãi giữa tuần mới về.” Chỉ 20 phút sau bà đã chuẩn bị xong cho chuyến đi Hà Nội. Trước khi ngồi lên xe máy của đứa cháu họ bà nhờ chở ra Quốc lộ 18 đón xe khách, bà dặn ông: “Ông nhớ tối nay bà Thành, bà Tảo đến thì ông nói lại và đưa túi quần áo tôi đã gói cẩn thận cho các bà ấy!”.
Trời tối nhọ mặt người, đèn đường ở những điểm giao nhau gần con ngõ vừa bật sáng thì ông nghe tiếng bà Thành, bà Tảo gọi ngoài cổng. Ông ra mở cổng mời 2 bà vào nhà, thấy tay mỗi bà xách một túi quà. Chờ 2 bà ngồi xuống ghế, ông rót nước mời rồi mới cho 2 bà biết việc bà nhà ông đi lên Hà Nội lúc hơn 1 giờ chiều trông cháu vài ngày cho con gái. Sau đó, ông lại đầu giường lấy túi quà và nói: “Bà nhà tôi đã chuẩn bị túi quà đây, giờ tôi cùng đi với các bà nhé!”. Bà Tảo nghe vậy vui lắm: “Thế thì còn gì bằng!”. Mọi người đều cười. Chợt, ông kêu lên: “Tý quên! Các bà đợi tôi một lát”, rồi đi nhanh vào phòng trong, lát sau ông đi ra, tay bê đến cả chục quyển truyện tranh và 5, 6 thếp giấy trắng, vở viết. Ông nói với 2 bà: “Mấy quyển truyện tranh các cháu nhà tôi dạo nọ về chơi mang theo đọc, bỏ lại. Tôi gọi điện hỏi để gửi lên thì bố mẹ chúng bảo thôi, đã mua mới rồi, tôi liền cất đi. Còn mấy thếp giấy và vở thì là của nhà không dùng đến nữa, nay cả truyện và giấy, đem cho bọn trẻ nhà cô ấy.” Bà Tảo vừa giúp ông cởi túi quà cho thêm vở và truyện tranh vào, vừa nói: “Thế này thì quý hóa quá! Mấy đứa con cô ấy hẳn là mừng lắm đây!”.
Ba người hỏi thăm đến nơi thì vừa lúc mẹ con cô Hương ăn cơm xong. Thật tình cờ, dưới ánh đèn điện, cả ông và cô Hương đều thoáng chút ngỡ ngàng. Thì ra cô Hương đây chính là người phụ nữ vẫn sáng sớm nào cũng lầm lũi đạp xe đạp, chở mấy cái bao dứa đi ngang qua cổng nhà ông. Còn cô Hương cũng nhận ngay ra ông, nhà ở đầu con ngõ nhỏ, lối xuống đường cái lớn. Sáng sớm nào đi chợ qua cô cũng thấyông tập thể dục ở góc sân. Ông chỉ vào cô Hương, nói với 2 bà: “Tôi biết cô này, sáng sớm nào cũng đạp xe đi chợ qua cổng nhà tôi.”. Bà Tảo nhìn ông và cô Hương, cười: “Thế ra đều là chỗ quen biết cả!”. Khi cả chủ và khách đều đã ngồi xuống chiếc giường cá nhân kê ở hiên, ông mới nhìn kĩ căn nhà chỉ còn trơ 4 bức tường xạm đen khói. Mái nhà lợp giấy dầu, các vì kèo bằng gỗ, tất cả đều cháy, đổ xụp hết, đang được che tạm tấm vải bạt. Cô Hương bùi ngùi kể cho mọi người về vụ hỏa hoạn: sáng hôm ấy lo cho con ăn xong chuẩn bị đi học, còn cô cũng mau mau thu xếp để đi chợ bán rau nhưng do vội quá cô quên không đậy cửa bếp than tổ ong. Trưa đó, trời sao lại nổi gió tây. Gió làm tung cả cửa nhà bếp che tạm bằng miếng tôn. Lá khô, giấy vụn ở ngoài bay tứ tung vào bắt lửa từ bếp than tổ ong cháy bùng lên, lan sang cả nhà trên, xây liền tường. Giờ đấy khu dân cư vắng lắm, lũ trẻ đi học, người lớn đi làm. Khi mọi người chạy đến cứu, ngọn lửa đã trùm lên hết ngôi nhà. Cô ở chợ chạy thục mạng về thì nhà cháy hết chẳng còn gì. Cô gào lên, lao vào định bê mấy thứ đồ đạc còn sót lại thì bị vấp ngã, một tay vừa bị bỏng, vừa trật khớp, một chân bị bong gân, sưng vù đi lại khó khăn, vẫn đang phải bóp thuốc. Nghe cô Hương kể xong, ai cũng ngậm ngùi, xót xa. Bà Thành cất lời bầy tỏ sự cảm thông, chia sẻ hoàn cảnh 3 mẹ con và trao những túi quà tình nghĩa cho cô Hương, gọi là “của ít lòng nhiều” của mấy ông bà hưu trí ở tổ 3. Cô Hương quá xúc động, tay run run nhận những túi quà: “Mẹ con cháu xin cảm ơn các ông, các bà nhiều lắm! Không có “tình làng, nghĩa xóm” chia sẻ, giúp đỡ thì những lúc như thế này mẹ con cháu làm sao sống nổi!”
Từ hôm đi thăm nhà cô Hương về, những buổi sáng tập thể dục nơi góc sân, ông hay nghĩ ngợi về bốn con người ấy với sự cảm thông, chia sẻ. Họ là bốn cuộc đời, bốn số phận trên đường mưu sinh, đã từng hơn một ngàn buổi sáng sớm đều đặn, đều đặn đi ngang qua cổng nhà ông, kể từ ngày ông quen mặt họ. Tất cả họ đều nghèo, thiếu may mắn, cuộc sống khó khăn. Những rủi ro, bất trắc luôn rình rập họ, bủa vây lấy họ, phá vỡ nhịp sống đời thường của họ bất cứ lúc nào. Để rồi, những buổi sáng sớm ông thấy vắng bóng họ đi ngang qua cổng..Trong thâm tâm, ông thầm mong cô Hương, cậu xe ôm, chị công chức, chị bán vé số dạo, gắng vượt qua bao nỗi nhọc nhằn để mỗi buổi sáng sớm đủ cả bốn người, họ sẽ lạị đi ngang qua cổng nhà ông đều đặn, đều đặn.
Mấy hôm nay trời chuyển mưa. Cơn mưa đêm như trút nước, mãi gần 7 giờ sáng mới tạnh hẳn. Mưa làm sạt lở một đám ngõ gần cổng nhà ông. Đất cát, đá vụn, xỉ than bị nước cuốn đọng lại thành ụ to chắn gần hết lối đi. Cơn mưa khiến ông mất buổi tập thể dục nhưng lại có việc cho ông làm. Khi ra mở cổng thấy đám ngõ sạt lở ông vội quay vào nhà lấy cuốc xẻng ra hì hục xúc đất đá, kè lại chỗ sạt lở. Vậy mà cũng phải mất đến gần tiếng đồng hồ mới làm xong. Người thấm mệt, ông còn đang chống cuốc đứng nghỉ thì mấy ông bà hàng xóm mới biết, vội chạy ra. Họ trách ông sao có việc như vậy không hô lên một tiếng để cùng làm thì ông cười hiền lành, bảo: “Việc to tát gì đâu mà hô với hào. Tôi thấy trước thì làm để có lối đi lại. Vả lại, tôi biết nhà các ông, bà cũng neo người như nhà tôi, có ra làm thì cũng toàn mấy ông bà già trông còn yếu hơn cả tôi ấy chứ!” Nghe vậy mấy ông bà đều cười cho là ông nói phải. Về đến cổng nhà mình nhưng ông Thụ chưa vào ngay, mặc cho bà nhà giục vào ăn sáng. Ông đứng lại, đưa mắt nhìn dọc theo con ngõ nhỏ. Ông lại đang nghĩ về bốn con người ấy bởi lẽ chính họ cũng là một phần để ông chia sẻ, làm cái công việc vừa xong đấy thôi! Giờ mưa đã tạnh, nắng đang lên, con ngõ cũng đang khô dần và chỗ bị sạt lở cũng đã được sửa lại. Tất cả như chỉ còn chờ mỗi họ… Nghĩ đến đây ông thấy vui trong lòng.
***
Ở quán nước ông Bảo người ta có thể biết được nhiều chuyện xẩy ra trên địa bàn khu phố 5 còn nóng hổi tính thời sự. Chuyện hay cũng lắm mà chuyện dở cũng nhiều, từ các bà đi chợ về, ghé vào nghỉ chân, từ khách hàng và từ mấy ông nhà quanh đấy, rỗi việc ra ngồi tán gẫu. Chả thế mà mấy bà nhà gần quán nước có lần nửa đùa, nửa thật, nói bóng gió: “Chỗ mình bây giờ không chỉ cánh phụ nữ chịu tiếng “buôn dưa lê” đâu nhé!”. Hôm nay cũng vậy, hơn 9 giờ sáng, quán vắng, mấy ông hàng xóm ngồi cà kê hết chuyện nọ, lại xọ sang chuyện kia, rồi đem chuyện nhà người khác ra kể. Ông Hạng, một công chức làm ở Chi cục kiểm lâm tỉnh, mới về hưu năm ngoái, tiếng là người hay “sinh sự” ở tổ dân, bỗng hỏỉ ông Bảo: “Ông thấy cái nhà ông Thụ thế nào? Thụ bưu điện ấy!” Ông Bảo cười: “À, tôi ít tiếp xúc, nhưng thấy ông ấy tính trầm, sống nội tâm.” Ông Bảo vừa nói xong thì ông Đáo, làm bên xây dựng, sau bỏ việc đi làm ngoài, nhà giàu lên vì buôn bán đồ cổ, cậy có của hay khoe mẽ hàng xóm, liền cất tiếng: “Nội tâm cái đếch gì! Tôi biết ông này về hưu mấy năm nay. Bà vợ thì cởi mở, còn ông ta thì sống khép mình, vô cảm!”. Vừa hay lúc đó, ông Vinh, chồng bà Thành là sĩ quan quân đội về hưu vào quán mua gói bim bim cho cháu, nghe thấy vậy, nóng mặt quá, nói to: “Ai bảo ông ấy sống khép mình, vô cảm? Chỉ hồ đồ! Khép mình, vô cảm mà ông ấy biết sẻ chia, hôm nọ còn cùng với bà Tảo và bà nhà tôi đem quần áo, giấy bút lên thăm hỏi, ủng hộ mẹ con cô Hương trên tổ 7, nhà bị cháy. Rồi, mới hôm kia, mưa làm đoạn ngõ gần nhà ông ấy bị sạt lở, ngõ là ngõ chung của mấy nhà nhưng ông ấy đã một mình san gạt đất đá, kè lại cho tử tế. Các ông không vô tâm, vô cảm, có làm được như vậy không?”. Nói xong, ông Vinh chào ông Bảo, đi ra. Không khí trong quán bỗng trở nên im lặng…
Nguyễn Văn Nguyên
Đánh giá bài viết
Bài viết liên quan: