Nói về cái hùng vĩ thì rừng U Minh không thể sánh với dải Trường Sơn trùng điệp chạy dài từ Bắc chí Nam, hay những dãy núi đèo chập chùng cao ngất quanh năm mây phủ của núi rừng Tây Bắc. Nhưng nói về màu xanh cây lá và sự rậm rịt âm u thì có lẽ rừng U Minh thuộc hàng đệ nhất, không hề thua kém bất cứ khu rừng nào. Trèo lên một gò cao, phóng tầm mắt qua những ngọn tràm, rừng U Minh nhìn như một tấm thảm bằng phẳng trải dài tới tận đường chân trời. Trên tấm thảm màu xanh lục của những ngọn tràm đang rì rào rũ gió, con sông Trèm Trẹm như một dải lụa mềm mại uốn mình giữa bát ngát của những cánh rừng xen lẫn những trảng, những gò cùng những xóm nhà rải rác.
Cái tên U Minh đúng theo nghĩa “u minh” là vắng lặng, sâu kín, mịt mù. Trước năm 1945 người ta chỉ gọi miệt u minh, cõi u minh như là một từ chỉ vùng rừng âm u, tăm tối, chưa phải là cái tên chính thức nên chưa viết hoa hai chữ u minh. Sử sách, thư tịch triều Nguyễn đều ghi vùng rừng u tịch này là nơi lâm chằm, lâm tẩu. Từ khi ta có cuộc kháng chiến chống Pháp, dải rừng dày đặc cây lá đã trở thành căn cứ địa hiểm yếu, vững chắc. Cụm từ “U Minh” dần hình thành để chỉ dải rừng ngập nước và những xóm làng, đồng ruộng ven rừng trải dài từ hữu ngạn sông Cái Lớn xuôi theo sông Trèm Trẹm, trùm qua sông Ông Đốc, giáp với khu rừng đước bạt ngàn của vùng đất mũi Cà Mau.
Rừng U Minh là loại rừng sác, rừng lầy ven biển với những quần thể thực vật chịu mặn, chịu hạn. Có những nơi rậm rịt tới mức không khi nào ánh sáng mặt trời chiếu được tới mặt đất, nên mới có cụm từ “đám lá tối trời”. Mùa nắng rừng khô tới lớp đáy than bùn cách mặt đất chừng vài mét. Mùa mưa nước ngập lênh láng khắp mặt rừng chỉ còn nổi lên vài vùng gò hơi cao hơn mặt đất xung quanh. Nhưng mưa hay nắng gì rừng cũng vẫn xanh tốt quanh năm. Vùng U Minh vốn là vùng đất hình lòng chảo. Trong cải chảo đất mênh mông đó có nhiều trảng nhiều gò. Là vùng đất hoang phế lâu năm nên hệ sinh thái của rừng đa phần vẫn trong tình trạng nguyên thuỷ. Loại hình địa lý này tạo ra một hệ thống sông rạch dày đặc, đan xen thành những loại đường nước phức tạp dẫn đến sự bất thường về tình trạng thuỷ văn. Muốn vào rừng thông thường người ta phải di chuyển bằng xuồng. Trên đường đi người chèo xuồng phải luôn chuẩn bị nhiều dụng cụ chèo chống khác nhau. Do đó người ta mới có câu:
“Đi xuồng có bốn cái vui
Lúc chống, lúc lạo, lúc bơi, lúc chèo”
Lúc xuồng vượt cạn thì dùng sào để chống. Xuồng đi tới khúc kinh hẹp có nước sâu thì gác chèo lên, đứng chồm tới trước “lạo”. Tới khúc nước hẹp quá “lạo” không được thì dùng dầm bơi. Đến đoạn sông rộng thì cất dầm, bỏ chèo xuống, chèo. Sông rạch vùng U Minh có đặc điểm khác hơn nơi khác là, lên doi, xuống vịnh, cong queo, gấp khúc, có khi đi hết cả buổi đường mà chỉ mới được chừng nửa cây số đường chim bay. Vì vậy ở vùng U minh người ta nói “đi hết con doi, ăn hết giạ gạo” là vậy. Nếu ta đi xuồng ở bìa rừng vùng ven biển thì người chèo xuồng có khi “vừa bị nước ngược, vừa được nước xuôi”, bởi gặp đoạn dường “giáp nước”, tức là nửa đổ về phía này, nửa đổ về phía kia.
Có lẽ không đâu trên dải đất chữa S này lại có nhiều sông rạch và đường nước tự nhiên như ở vùng U Minh này. Vì vậy ngay tên gọi cũng vô cùng phong phú: Sông, kinh, mương, rạch, rọc, láng, lạch, bàu, lung, đầm, đìa, bưng, búng, xép, xẻo, doi, vịnh, cửa, vàm, rọ, bãi, mũi, gành, giồng, trảng, ao, suối…Do ảnh hưởng của thế đất, thế nước như vậy nên rừng U Minh có đặc trưng riêng không giống với rừng nơi khác được.
Mặt đất U Minh được cấu tạo bằng tầng thảm mục thực vật tích tụ hàng vạn năm trùm phủ một lớp khá dày, có nơi cao đến vài ba mét. Tuy rừng nằm dọc ven biển nhưng một phần nhờ mực nước trong vịnh Thái Lan lên xuống không cao, phần vì lớp đất phân khá dày ngấm đầy nước ngọt quanh năm rỉ ra nên nước mặn không ngấm được vào dưới chân rừng. Những năm bảy tám, bảy chín của thế kỷ trước, do không điều nghiên kỹ và không có các điều kiện đánh giá tác động môi trường nên ta đã tổ chức xẻ các con kinh vào rừng để xả phèn, xả mặn cho dân làm ruộng, chỉ với mục tiêu là làm mọi cách để tăng sản lượng lương thực. Không ai nghĩ và cũng không ai biết rằng đó là một quyết định sai lầm to lớn không thể sửa chữa. Gián tiếp góp phần huỷ diệt những cánh rừng xanh. Vì nước ngọt rỉ hết xuống kinh làm cho tầng than bùn và lớp thảm mục phía trên trở nên khô kiệt trong mùa khô chính là một trong những nguyên nhân làm nên những vụ cháy rừng khủng khiếp. Và mỗi lần rừng cháy thì nghiễm nhiên diện tích rừng bị thu hẹp do khu vực cháy sau đó đã trở thành đồng ruộng. Những người nông dân tứ xứ lưu tán sau chiến tranh họ rất mừng vì nhờ cháy rừng họ có được những khoảnh ruộng tốt tươi sau vụ cháy. Vì vậy chính họ đã trở thành một trong những tác nhân gây cháy rừng.
Hồi đó tôi còn là một anh lính mới tòn teng đã dần trở thành một trong những người đi chữa cháy rừng U Minh dày dạn, khi hàng năm cứ bắt đầu từ giữa mùa khô trở đi là rừng bắt đầu cháy lớn. Và tất nhiên nhiệm vụ của những người đi chữa cháy là làm mọi cách để ngăn chặn sự tác oai của “bà Hoả” chứ đánh bại bà ta thì chưa thể. Vì thời đó ta đâu đã có phương tiện gì hiện đại ngoài những công cụ thô sơ của nhà nông như dao, len, cuốc, phảng, cùng đôi tay của những người công an, bộ đội, dân quân và cả những người phạm nhân tội nhẹ. Nói đi chữa cháy cho oai chứ hồi đó tụi tôi chỉ đủ sức đào những con mương nhỏ ngăn cách vùng cháy rồi chờ mùa mưa ông Trời tải nước về dội xuống để dập tắt các đám cháy mà thôi. Còn cái lưỡi đỏ lòm chết chóc của “bà Hoả”thò ra liếm tới đâu là việc riêng của mụ ấy.
Chừng hai chục năm trở lại đây nạn cháy rừng ở vùng U Minh đã bị đẩy lùi, một phần nhờ sự quyết liệt của các nhà quản lý. Nhưng một phần thực tế là rừng không còn nhiều như xưa. Theo thống kê, đầu thế kỷ hai mươi rừng U Minh rộng khoảng hơn ba trăm ngàn hec-ta thì hiện nay vùng lõi của vườn quốc gia U Minh Thượng còn chừng tám ngàn héc-ta trong đó rừng nguyên sinh chỉ còn trên dưới một ngàn hec-ta nữa mà thôi.
Mấy năm trở lại đây nước Nam ta trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng nhứt nhì thế giới. Nhưng mấy ai biết được rằng để có được những con số ấn tượng đầy tự hào ấy, ngoài việc khai phá những vùng đất hoang hoá và tăng năng suất, thì còn một phần nhờ tăng diện tích trồng lúa do tác động của những vụ cháy rừng. Người Việt ta vốn từ cái nôi của nền văn minh lúa nước mấy ngàn đời, nay lại đi lên từ nghèo đói nên quý trọng hột lúa như hột vàng. Nhưng đánh đổi những tấn gạo xuất khẩu kia bằng những hec-ta rừng quý giá mà mẹ thiên nhiên tạo ra và ban tặng cho chúng ta từ hàng ngàn năm nay thì có lẽ ai cũng xót xa và cũng không ai muốn.
Thời gian lùi xa. Những năm tháng đầy gian khổ, hiểm nguy và vất vả để dập tắt các đám cháy, bảo vệ những cánh rừng tràm U Minh đã dần đi vào trong ký ức. Tôi có bay ngang qua rừng U Minh nhiều lần bằng máy bay trực thăng trong những lần chữa cháy rừng, và sau này khi bay trong những lần khảo sát của tổ chức Hoà bình Xanh. Dưới cánh bay, con sông Trèm Trẹm tuôn dài, tuôn dài như một dải tóc trữ tình, những lọn tóc ẩn hiện trong màu xanh của đất trời U Minh thoang thoảng mùi hương tràm man mác. Tôi đã say sưa nhìn xuyên qua những đám mây mùa xuân trôi lãng đãng, để tận mắt chiêm ngưỡng dòng nước màu xanh ngọc của con sông Trẹm, hoà trộn với màu đỏ của nước từ trong rừng U Minh đổ ra để rồi trôi xuôi hoà chung vào màu xanh của biển Tây Tổ quốc. Khi ngồi ở mặt đất, quen nhìn trên bản đồ tác chiến thấy rừng U Minh chỉ là một mảng màu xanh tô đậm không ấn tượng gì, thì khi ngồi lên tàu bay, trên tầm cao nhìn xuống đất nước bao la, càng thấy cái thảm màu xanh ấy nổi bật giữa mênh mông đồng ruộng, đẹp một cách lạ lùng, nghe xa lạ với cái từ “u minh”đã thành tên của nó. Tôi cũng đã nhiều lần ngồi xuồng qua lại trên các dòng kinh để đi sâu vào rừng. Cảnh sắc ven kinh ở đây lững lờ. Hình như từ xa xưa cho đến tận bây giờ quãng kinh này vẫn lặng lờ như thế mà thôi. Bờ kinh vẫn hoang dại như từ thời tiền sử, nhưng kinh rạch và cây rừng lại rất có hồn như trong nỗi niềm cổ tích tuổi thơ, chỉ có điều khúc kinh ấy bây giờ ngắn lại, không còn mênh mang kéo dài hàng buổi sau đuôi xuồng như trước nữa. Bao giờ cho trở lại ngày xưa, để ở đó người chèo xuồng luôn gọi nhau:
“Bớ ghe sau, chèo sau anh đợi
Kẻo khúc sông này bờ bụi tối tăm”
Rồi cũng đâu còn cái cảnh:
“ U minh khốn khổ quá chừng
Xuống sông sấu bắt lên rừng cọp tha”
Dòng kinh vẫn hiền hoà, lững lờ như nhớ thương về những dải rừng thời xa xưa ngập nắng, thời của những bậc tiền nhân đi mở đất trong cõi rừng mênh mông âm u chỉ có tiếng chim, tiếng thú. Và con kinh như đang lắng nghe những tiếng cười nói của lớp người nay, của thời đất nước đang cất cánh và hội nhập. Con kinh vẫn lững lờ trôi, lững lờ trôi.
Nguyễn Đình Hậu
Đánh giá bài viết
Bài viết liên quan: