1.
Bình về đến cầu phao thì trời đổ mưa, đất trời bầm dập. Từ khi đi bộ đội, lần nào Bình trở về trời cũng mưa. Mưa ngay cả khi rạng nắng. Nhà Bình kia, lầm lũi bên sông, trong ấy có hai người đàn bà goá.
Ngôi nhà bên bờ sông Đáy, cạnh chiếc cầu phao. Cầu được kết bởi những thùng phuy, phía trên gắn những tấm ván bằng gỗ làm lối đi qua sông. Con sông chảy qua đây thành địa giới hai huyện Mỹ Đức và Ứng Hoà. Sau này, khi người ta xây cầu gần đó, cầu phao vắng hẳn người qua. Nó trở nên yếu ớt, mỏng manh khi mưa bão, lay lắt tồn tại với tháng ngày. Vậy mà tâm trí luôn dẫn dắt bước chân Bình qua lối này mỗi khi có dịp nghỉ phép, bất kể thời tiết ra sao. Vài người tránh mưa hớt hải chạy qua, bước chân rầm rập khiến chiếc cầu dập dềnh lên xuống, ai cũng nhận ra Bình.
Mưa lùa Bình vào nhà, hai người đàn bà tất tả chạy lúa mừng rỡ. Mẹ mờ mắt nhưng vẫn nhận ra thằng con giữa mịt mù. Bình nhanh chóng bỏ ba lô lấy cái bồ cào trên tay mẹ, người mẹ gầy nhom, ngồi thở dốc. Chị Liên nãy giờ vục lúa chất thành đống trên hiên nhà. Bình sức dài vai rộng, chị Liên thắt đáy lưng ong, làm thoăn thoắt, nhà cấy ba sào, được hai tạ nên một tí là xong.
Mẹ lấy chiếc khăn trên vai lau khô khuôn mặt đen sạm, gân guốc của thằng con quen sống nơi rừng thiêng nước độc. Nói là chiếc khăn cho sang chứ thực là mảnh vải được cắt từ chiếc chăn quân nhu anh Hoà gửi về, mẹ dùng như vật bất li thân. Sau năm tháng, miếng vải xanh chuyển màu bạc phếch, nhưng ngày càng mềm mại hơn, mềm tới mức cảm tưởng chỉ xé nhẹ là có thể rách bươm. Vậy mà chiếc khăn vẫn lành lặn trên vai mẹ, mùi ngai ngái của vị trầu và mồ hôi quện nhau thành hơi mẹ, thứ hơi gần gũi ấy luôn theo tâm tưởng Bình những ngày tháng rừng già nay đậm đà trước mặt. Mẹ nhìn con mãn nguyện, hít hà, con dậy lòng xót xa. Bình thấy trên khuôn mặt gầy gò của mẹ từng nếp thịt già nhăn nheo xô nhau làm trồi lên những vết đồi mồi. Không biết các cụ nói đồi mồi sống dai liệu có đúng, nhưng chúng bắt đầu xuất hiện từ khi anh trai Bình hi sinh. Những vết thâm xù xì xuất hiện càng ngày càng nhiều, khi Bình đi bộ đội đã nghe đám trẻ trong làng không gọi tên mẹ hay thay bằng tên anh trai như trước kia, gọi là bà Mồi. Đồi mồi mọc chi chít, nhiều lúc Bình nghĩ chẳng biết chúng muốn che đi nỗi buồn hay đang gặm nhấm niềm đau trên gương mặt mẹ.
“Vẫn chưa thấy mẹ ạ.” Bình nói dù chưa có câu hỏi nào từ mẹ.
Mẹ lặng lẽ mang ánh mắt rười rượi vào buồng. Bình biết mẹ lại vào ngồi bên cửa sổ nhìn ra lòng sông rộng mênh mang, góc ấy có thể nhìn rõ người qua lại trên chiếc cầu phao. Có lần Bình trở về, mới đến giữa cầu đã thấy bóng mẹ thấp thoáng từ cửa sổ, mẹ tất tả chạy ra mừng rỡ. Sau này mới biết mẹ nhầm Bình với anh Hoà. Bình không tự ái, bởi Bình biết mẹ thương hai anh em như nhau, nhưng chút hi vong mong manh mẹ cố giữ cho trái tim mình dễ đập, cho lồng ngực mình dễ thở, mẹ vẫn mong nhìn thấy anh Hoà hiện hữu trở về.
Chị Liên đưa cho cốc nước vối, Bình làm một hơi hết sạch, cái vị thanh thanh mát lành quen thuộc của cây vối nếp đầu nhà. Cây ấy anh Hoà trồng từ ngày còn yêu chị Liên, cây vối nhà Bình là cây con, còn nhà chị Liên là cây mẹ. Bình thèm khát cái vị vối đến mức lần nào về phép cũng thủ một đùm mang lên đơn vị uống dần, nhưng nhất định phải là lá vối tươi, không phải lá khô. Mùi vị lá tươi khi ủ đủ lâu trong nước sôi thơm nưng nức, quyện vào gió đưa khắp dãy nhà trung đội, ai lỡ ngửi thấy bận mấy cũng phải sang xin hớp. Bình nhớ khi còn nhỏ, bị chốc đầu, gầu cứ cả tảng, chẳng cần phải dùng lược chắt, gãi thôi là chấy đã rơi lã chã, chị Liên nấu lá vối gội đầu cho Bình, vài lần là khỏi.
Chị dâu đã qua tuổi ba mươi nhưng đẹp hơn nhiều đám con gái trẻ trong làng, nhất là nụ cười duyên vẫn làm bao người xao xuyến, mỗi lần giặt chiếu dưới sông, người đi qua không buông lời trêu ghẹo cũng phải liếc nhìn. Họ vừa tiếc nuối, rồi nói với nhau rằng chị trẻ vậy mà đã goá chồng, vừa ngưỡng mộ cái nét duyên và đảm đang của chị, Bình thấy trong mắt họ ý nghĩ ước gì chị làm con nhà người ta, làm vợ người ta. Hồi chưa đi bộ đội, thấy ai đó ghẹo chị là Bình thù ra mặt, ghim vào lòng. Biết chuyện, chị mỉm cười, xoa đầu cho dịu cái hậm hực trong cậu thanh niên đang lớn. Ngày nhận giấy báo tử của anh Hoà, chị suy sụp, khóc đến sưng mắt, ốm vật ốm vã. Bến sông nơi chị vẫn ngồi quạnh hiu, những con sóng xoa bờ rón rén sợ đau lòng người. Chị không xuống bến nữa mà giặt đồ trên giếng nhà, cái giếng cạnh cây vối. Chị hay ngồi đó, ngay cả khi không dùng đến giếng nước, có lúc Bình thấy chỗ ấy rơi đầy những lá vối tươi. Chị cũng giống mẹ, chẳng tin anh đã chết.
Ngày tiễn Bình vào bộ đội, mẹ sụt sùi chả nói gì, chị dặn dò đủ thứ. Bình thấy trong mắt chị rưng rưng, nước mắt thản nhiên chảy thành dòng xuống đôi má hồng, y như ngày chia tay anh Hoà vào chiến trường, chỉ là chị không ôm Bình như từng ôm anh. “Đi nghĩa vụ 3 năm lại về, không phải lo, chiến tranh kết thúc rồi.” Chú xã đội trưởng nói với hai người đàn bà, miệng cười xoà ái ngại. Hình như chú đã từng chứng kiến họ tiễn anh Hoà.
2.
“Lần này về mẹ muốn bàn với anh một chuyện.”
Cơm nước xong xuôi, mẹ thu lu ngồi trên chiếc ghế đối diện với Bình kê gian giữa, chị Liên ở trong buồng. Nhà Bình năm gian, đầu hồi phía bờ sông là buồng mẹ, đối diện phía đằng này là buồng cưới của anh chị, Bình về thì ngủ ở cái phản kê giáp buồng mẹ.
“Mẹ định gả chồng cho chị Liên.”
Bình nghe có tiếng rơi trong buồng. Nếu là trước đây chắc Bình sẽ sửng cồ mà gào lên, Bình không thích chị Liên tái giá, nhưng giờ, sau phút sững người, anh bình thản nghe.
“Dù không tin nhưng mẹ phải chấp nhận là anh con không về, cái Liên không còn son nhưng còn sắc. Mẹ không muốn chị dâu con ở vậy đến hết đời. Mẹ giữ chị là mẹ ác, chị ấy phải lấy chồng, sinh con. Đàn bà không có con gọi gì là đàn bà.”
“Thế mẹ đã giấm ai chưa, liệu chị Liên có đồng ý không?” Lòng Bình đau nhoi nhói.
“Thằng Quang chứ ai.” – Mẹ nói nhỏ đủ nghe.
Anh Quang là bạn anh Hoà, hai người có tình ý với chị Liên, nhưng chị Liên chọn anh Hoà. Sau khi anh Hoà vào bộ đội thì anh Quang đi học nghề ở đâu đó mãi tận trên Thái Nguyên. Anh đã từng có vợ nhưng đã li dị, giờ anh về, sống với bố mẹ già ở cuối làng và có cửa hàng hàn xì ở chợ Kênh Đào. Ngày xưa, anh Quang hay đến nhà Bình chơi, từ khi chị Liên về làm dâu, anh không còn đến nữa. Bình chợt nhớ thi thoảng về nhà, Bình thấy anh Quang vẫn đi qua cầu phao sang bên Ứng Hoà, có lần giáp mặt nhau, anh cười rồi vội đi.
“Ý mẹ đã quyết. Ông bà nhà chú Quang đã đánh tiếng với mẹ từ đầu năm. Mẹ chỉ chờ con về nói nữa là xong.”
Bao năm nay, Bình chẳng hề có cảm tình với người con gái nào, chị Liên vẫn luôn trong tim Bình như một sự ngự trị vĩnh cửu, nhưng giờ mọi thứ sẽ đổi thay. Đêm ấy, Bình nghe nhiều những trở mình lẫn lộn trong tiếng cơn mưa rả rích, khi anh thiêm thiếp vào giấc ngủ, chợt có tiếng cót két của bản lề cửa lối, gió hun hút thổi vào nhà từ phía lòng sông. Tiếng gió gần đến nỗi chiếc màn tuyn bay phần phật, trong bóng đêm, Bình tỉnh dậy và nhìn thấy ai đó như chị dâu bước vội vã ra ngoài. Anh bước theo và sững người khi thấy chị Liên đang chới với giữa trời mưa tầm tã. Bình chạy ra bế sốc chị dâu vào nhà. Bà Mồi cũng tỉnh dậy, tất tả cầm chiếc khăn khô vừa lau cho chị vừa lẩm bẩm. “Lại mơ thấy nó phải không?” Chị gật đầu, thút thít khóc.
“Con thấy anh đứng mãi trước ban thờ rồi hạ di ảnh của mình, chạy theo anh thì chỉ thấy quanh mình mịt mù mưa là mưa.”
Mẹ kể chị hay mơ về anh, nên lấy chồng để chị bớt suy nghĩ, không lại thành bệnh. Đêm ấy, Bình thức đến sáng, anh nghĩ về hai người đàn bà trong ngôi nhà này, những người phụ nữ sau chiến tranh cùng nỗi đau đàn bà. Nỗi đau ám ảnh, u uất mãi chẳng vơi đi…
Sáng hôm sau, Bình thấy mắt chị thâm quầng, mẹ cũng mất ngủ, nhưng đó là chuyện thường của người có tuổi, lớp thịt già đã che lấp cả. Chị lảng tránh khi Bình cố tìm cách nói chuyện, có lẽ chị ngại. Bình bỗng thấy mình trở nên lạc lõng trong căn nhà năm gian.
“Con định đi đâu?”
Mẹ hỏi khi thấy Bình khoác ba lô, anh nói đi gặp bạn chiến đấu với anh Hoà ở trên Thái Nguyên để tìm thông tin về nơi chôn cất anh. Mẹ kéo Bình lại.
“Đừng đi nữa.”
“Kìa mẹ, con sẽ tìm được anh.”
“Sau này tìm được hài cốt chưa có danh tính cứ khấn thêm tên anh con là được, ai cũng là con mẹ.” Giọng mẹ sụt sùi, tiếng nói thều thào phát ra từ người mẹ già nua, khắc khổ, khuôn mặt đồi mồi chịu đựng bao nhiêu nỗi đau mất mát, hôm qua vẫn còn đau đáu giờ bình thản, vô ưu. Bình chột dạ.
Tối qua, Bình đã kể cho mẹ nghe việc tìm liệt sĩ chẳng hề dễ dàng, hàng vạn hài cốt vẫn còn nằm lẩn khuất dưới những cánh rừng, tan vào đất, hoà vào cỏ cây. Có những chuyến đi đằng đẵng không thu được kết quả, nhiều lúc Bình và anh em đào không thấy gì, lòng động viên cố sâu thêm tí nữa, sợ nản sẽ bỏ sót liệt sĩ, còn tia hi vọng là còn tìm. Biết bao nhiêu hài cốt tìm thấy đưa về nước, nhưng tuyệt nhiên không thấy tên anh Hoà. Bình kể về những ngày bị sốt rét, những lần chạy lũ bất ngờ đổ về khi đang ngủ bên suối, cái chết luôn cận kề chẳng khác gì thời chiến.
Mẹ từ từ nắm lấy đôi tay chai sạn, xù xì của Bình áp lên đôi má nhăn nheo. Bình cảm nhận từ đôi mắt bà, dòng nước sền sệt chảy ra lan ra tay Bình, thứ nước gạn đáy lòng, đặc sánh, thứ nước chẳng dễ gì mà thấm ra ngoài. Mẹ vừa trải qua đợt ốm nặng tưởng không qua khỏi. Có lẽ hi vọng tìm thấy hài cốt anh Hoà đã níu kéo người mẹ tiều tuỵ, lay lắt sống bấu víu lấy cuộc đời này.
Hôm ấy, Bình đi tối mịt mới trở về. Khi gần tới cổng, Bình thấy có bóng người lấp ló. “Ai như anh Quang?” Thấy Bình, Quang bối rối, giấu khuôn mặt buồn rầu vào tối, rồi vội chào Bình. Cánh cổng cổng vẫn then cài, căn buồng chị Liên tối om, chẳng có ánh sáng nào hắt ra ngoài. Bình biết, chị chẳng hề có ý định tái giá.
3.
Sau đợt nghỉ phép, Bình cùng đồng đội đi sâu vào những cánh rừng trong đợt quy tập mới. Bao năm lặn lội, bây giờ Bình là một cán bộ có kinh nghiệm, thành phần không thể thiếu trong đội quy tập. Bình vẫn nhớ như in chuyến đầu tiên tham gia cùng đội, khu vực tìm kiếm giữa một cánh rừng trước đây là khu vực giao tranh ác liệt giữa quân giải phóng và lính đánh thuê Úc. Chiếc U oát chở đội khựng lại khi gần đến bìa rừng, tiếng máy nổ lịm dần rồi tắt hẳn, lái xe kiểm tra mãi không phát hiện lỗi hư hỏng. Mọi người bước xuống, họ thấy bánh lái chèn lên một tảng đá thấp, cao nhô lên mặt đất độ nửa gang tay, bình thường nó sẽ chẳng làm khó bất kì chiếc xe nào. Đội trưởng với kinh nghiệm lâu năm bảo mọi người đẩy xe về sau và dùng xà beng lật hòn đá lên. Lúc đó mọi người mới phát hiện dưới hòn đá có dấu hiệu tăng võng bộ đội. Cả đội cẩn thận đào, thứ đưa lên là hài cốt của một đồng chí quân giải phóng. Mọi người thắp hương khấn vái, xin đưa hài cốt về. Khi ấy chiếc xe lại nổ máy bình thường. Đội trưởng nói. “Liệt sĩ linh thiêng lắm, họ luôn dõi theo chúng ta.” Lần khác, cả đội mắc tăng võng ngủ qua đêm trong rừng, vừa nằm xuống ai nấy đều thiếp đi sau một ngày mệt mỏi. Riêng Bình cứ chợp mắt lại nghe những tiếng bước chân chạy qua bên cánh võng, lưng như có bàn tay vỗ nhẹ, tỉnh dậy nhìn quanh chẳng thấy ai, mấy lần như vậy Bình liền đánh thức anh đội trưởng, nói với anh những điều Bình nghe thấy. Người đội trưởng suy nghĩ một lúc liền bảo Bình đào lớp đất dưới võng lên, dù mệt nhưng Bình vẫn cố đào, sau dăm lượt cuốc, quả nhiên dưới đó là hài cốt của hai liệt sĩ. Ai cũng vui mừng khôn xiết, sau lần ấy, đội trưởng vỗ vai Bình cười sảng khoái. “Anh đi bao năm có khi nào được liệt sĩ vỗ lưng đâu. Sau này, kiểu gì có ngày anh trai cũng về tìm cậu.”
4.
“Mẹ ốm nặng. Chú về ngay.”
Chị dâu đánh điện khi Bình đang ở nước bạn. Lần ấy, Bình không về một mình. Bình đem hài cốt anh về nhà trước khi báo cáo chính quyền để họ làm nghi thức đón liệt sĩ. Chiếc quách nhỏ được anh mang thẳng vào buồng mẹ.
“Anh em con về với mẹ rồi đây.” Bình khóc rưng rức bên giường mẹ, bà Mồi thoi thóp thở. Chị dâu từ bếp chạy lên, ôm chặt lấy quách nức nở.
Hôm ấy, những đợt mưa rào rào trút xuống, tiếng mưa như tiếng kèn ma thê thiết, ỉ ôi kéo dài đến tận khuya, bà con lối xóm đến xót xa người nằm trên giường, khóc người trong quách. Giữa khuya, mẹ thều thào nói với Bình muốn được nhìn di cốt anh Hoà lần cuối. Như có một sức mạnh kì lạ thôi thúc bà Mồi gượng dậy, giữa những làn khói nhanh mỏng manh, mắt bà sáng rồi lại nhoè đi. Bàn tay gầy gò bà đưa ra như muốn được chạm vào xương cốt, trong vô thức bà vẫn cảm nhận được một nắm đất vụn đang tuột khỏi tay bà. “Hoà ơi!” Bà gọi tên con rồi nấc lên thành tiếng.
Bà Mồi qua đời đêm hôm đó, người ta bảo bà đã được anh Hoà về đón, nên trước khi chết bà mới mê sảng gọi tên con như thế. Việc đón liệt sĩ được chính quyền tổ chức ngày hôm sau ngay tại ngôi nhà bên sông cùng với đám tang bà Mồi.
Sông Đáy vọng vào những thanh âm da diết, cơn mưa như trút những đau thương, vật vã và khốc liệt. Nước sông dâng cao, chiếc cầu phao chòng chành, ngả nghiêng, tiếng thùng phuy đập vào nhau bồm bộp khiến chúng muốn vỡ tan ra, những thanh âm ấy dội vào tiềm thức, hành hạ, kéo suy nghĩ Bình trở lại rừng.
Rừng xanh, rừng sâu thăm thẳm, lá đã hứng, rừng đã che, tiếng mưa rừng không dữ dội, nhưng dai dẳng, thao thiết. Bình vẫn nhớ như in đôi mắt đỏ ngàu giận dữ của đội trưởng.
“Không được, tôi sẽ báo cáo kỉ luật nếu cậu cố tình làm vậy.”
“Nhưng mẹ tôi yếu lắm.” – Giọng Bình dứt khoát.
Nói đến đó, đội trưởng chợt sững lại, vốn coi Bình như đứa em, chính anh là người xin cấp trên cho vào đội quy tập, vì Bình cẩn thận, tỉ mỉ, lại có anh ruột là liệt sĩ. Anh từng đến ghé thăm nhà Bình, cảm thông trước nỗi niềm của mẹ, anh hứa sẽ cố gắng hết sức để mẹ toại nguyện.
Lần gặp bạn chiến đấu cùng đơn vị cũ của anh Hoà, người ấy kể rằng, hồi đó gần khu vực đơn vị đóng quân có nhiều buôn làng KhơMe thường xuyên bị tàn quân Pôn Pốt xâm nhập dụ dỗ, lôi kéo bà con không đi theo, giúp đỡ bộ đội tình nguyện. Đơn vị cử những tổ công tác vào sống trong các buôn cùng bà con nhân dân. Tuy nhiên, bốn người tổ của anh Hoà mất tích khi tới buôn làng có tên Tà Sóc. Do không liên lạc được với đội, đơn vị đã tiến hành kiểm tra, đến nơi phát hiện buôn ấy không một bóng người, mọi thứ đã bị đốt trụi. Đơn vị chia nhau đi tìm manh mối nhưng không thấy, năm năm sau vẫn không có tung tích nên thủ trưởng đơn vị đã kí giấy báo tử cho cả tổ công tác. Khi thấy trên bản đồ địa danh Tà Sóc gần khu quy tập của đội, Bình đã trình bày với đội trưởng và được chấp thuận. Người phiên dịch của địa phương đã dẫn họ đến Tà Sóc. Buôn làng nhiều hộ sinh sống, có vài gia đình cũ và cả từ người ở nơi khác đến lập nghiệp. Khi được hỏi về những người bộ đội năm nào, họ đều lắc đầu nói không biết.
Đêm ấy, Bình mơ thấy đôi mắt mẹ trĩu nặng, tay anh lau những dòng nước đặc sệt chảy ra từ hốc mắt sâu thẳm, tiếng mẹ dặn đi dặn lại phải mang hài cốt anh trai về văng vẳng bên tai đến khi gà gáy. Sáng hôm sau, khi đội chuẩn bị rời đi thì có người chỉ cho họ đến hỏi ông già sống ở rìa làng. Ông ta đã ngoài bảy mươi, khi biết những người Việt hỏi về những người bộ đội năm xưa, mắt ông sáng lên.
“Tôi đang chờ các anh.”
Ông kể về sự việc năm đó, chính ông là người được cử đi đón tổ công tác về làng, khi chuẩn bị ra đến đường lớn, ông thấy rất nhiều quân Pôn Pốt tràn xuống từ cánh rừng gần đó và đấu súng với nhóm bộ đội Việt Nam.
“Họ chiến đấu anh dũng nhưng không thể đánh lại cả trăm lính Pôn Pốt, họ bị dồn vào bãi mìn, dường như chúng đã giăng bẫy sẵn, lần lượt từng người ngã xuống, tôi còn nhìn thấy những mảnh thi thể bị hất tung lên.” Ông thừ người một lúc rồi kể tiếp.
“Chúng tiến về phía làng, đốt nhà và lùa bà con đi về phía biên giới. Đợi bọn chúng rút đi, tôi gom những mảnh thi thể bộ đội chôn chung một chỗ.” Câu chuyện ông già kể khiến cả đội nghẹn ngào, tiếc thương.
“Hình như ba người.” Ông già đăm chiêu khi mọi người hỏi về số người ông đã chôn cất.
Ngay sau đó, ông dẫn cả đội đến địa điểm để bốc mộ. Mọi người khẩn trương xắn tay vào việc, từng nhát cuốc đau xót bổ xuống như cắm vào da thịt họ, một lúc sau lộ ra hài cốt chỉ còn là những mủn đất đen và chẳng còn di vật gì bên cạnh để phân biệt từng người. Ông già nói đất vùng này người chết chôn vài năm chẳng còn xương.
“Nhưng tổ anh ấy có bốn người?” Bình ngạc nhiên hỏi, đội trưởng nhiều năm kinh nghiệm sau khi quan sát khẳng định chỉ có ba hài cốt.
Việc bốc đến tối thì xong, ba bộ hài cốt được xếp ngay ngắn, gói gọn trong ba miếng vải bạt. Nhưng việc không có thông tin về liệt sĩ ngoài vài cái tên đồng đội anh Hoà cung cấp đã gây khó khăn cho việc xác định danh tính từng hài cốt, ngay cả Bình cũng không biết đâu là phần di cốt của anh Hoà. Đội trưởng nói với người ghi hồ sơ: “Cứ ghi là liệt sĩ chưa xác định danh tính.” Bình giật mình.
Họ trở về ngôi nhà của ông già và xin tá túc qua đêm tại đó. Bình trằn trọc nghĩ về những bộ hài cốt, không có di vật gì để xác định danh tính liệt sĩ. Ánh chớp hắt vào soi rõ đôi mắt Bình nhìn đăm đăm về nơi để ba hài cốt. Đột nhiên, Bình bước đến đó, sau khi thắp nhang, anh cẩn thận mở từng bọc đựng hài cốt và trải ra tấm bạt mới. Sáng hôm sau, mọi người bàng hoàng khi thấy có thêm một bộ hài cốt nữa.
5.
Một năm sau, Bình về giỗ mẹ, chị Liên đang hái lá vối thấy Bình về đến cầu phao í ới gọi, đã lâu lắm Bình mới thấy chị cười. Khoảnh khắc ấy khiến Bình nhớ ánh mắt u buồn của mẹ và chị mỗi lần nhìn ra phía cầu phao ngày trước. Hôm ấy, Bình đi men bờ sông kiểm tra đó bẫy cá từ sáng, cảm giác lên nghe tiếng cá tôm nhảy lách chách, lách chách trong đó khiến Bình sảng khoái tâm hồn. Cất đó xong trời cũng buông mưa, Bình tẫm tắc khi được mẻ kha khá, anh sẽ tự tay làm một bữa ra trò đãi chị.
Mưa càng lúc càng nặng hạt, cơn mưa đồng bằng lần này khiến Bình có cảm giác lạ kì, mưa mịt mù, mưa giục giã. Anh rảo bước nhanh về ngôi nhà bên cầu, dưới sông tiếng mưa lõm bõm, nước bắn lên trông như những vụn thuỷ tinh vỡ. Bước vào sân, Bình ngạc nhiên khi thấy chị Liên đang nức nở ôm lấy người đàn ông đang đứng trước ban thờ, tiếng khóc nghe át cả tiếng mưa.
Bùi Minh Tuấn
Bài viết liên quan: