Mới đầu hè mà trời đất đã nóng như nung. Những đụn khí ẩm cuối xuân còn lẩn quất trong đất bốc lên thành những luồng hơi hầm hập. Mấy cây nhãn đứng im lìm trước khoảnh sân ran ran nắng. Lại mất điện. Gã muốn văng một câu chửi tục nhưng cố kìm lại vì trong nhà còn có bà mẹ vợ mới đến chơi. Hai bà già cầm xấp báo quạt phành phạch, hết ôn nghèo kể khổ, rên rẩm kêu chân nhức mắt mờ, lại càu nhàu mắng thằng cháu về cái tội để sách vở bừa bãi.
Chiều qua, cái bẫy của gã vướng vào đám dây điện chống chuột nên bị chập cháy. Ở đời, có những sự “tương phùng” oái oăm như thế, cùng chí hướng công dụng mà lại xung khắc chí chát. Gã nhìn đám đồ nghề lổng chổng, mồ hôi ròng ròng, mặt khoặm lại. Không có bẫy điện thì phải dùng chim mồi chứ cứ quanh quẩn ở nhà thế này đến phát điên mất. Gã xuống bếp lục tìm tấm lưới cũ rồi ra góc vườn xoay qua xoay lại ngó nghiêng mấy chiếc lồng, tóm lấy một con to khoẻ nhất. Con chim giẫy giụa, cào vào bàn tay gã mấy vệt đỏ ửng. Lũ chim còn lại nhao ra chí choé, mắt loé lên như những ngôi sao vỡ.
Thằng con trai gã ngồi tẩn mẩn xếp hình dưới gốc cây nhãn, hí hoáy mãi mà vẫn chưa hoàn thành hình ngôi nhà bởi thiếu mất cái nóc và một phần chân đế khiến khối hình lung lay không vững. Gã rủ nó đi cùng nhưng thằng bé ậm ờ từ chối, tay vẫn bới tung đám mảnh ghép xanh đỏ. Gã bậm bịch ra khỏi nhà. Bà mẹ già gọi với theo: “Bố thằng Luận nhớ về sớm nấu cơm, hôm nay mất điện phải nấu bằng bếp củi đấy.”
***
Khi gã rục rịch nhận quyết định nghỉ hưu sớm do cơ chế sáp nhập các phòng ban, đám nhân viên loi nhoi bợ đỡ kẻ thì sơn sớt vuốt đuôi nói rằng gã về nghỉ thì cơ quan phí mất một nhân lực cốt cán, kẻ thì tặc lưỡi bảo thôi cứ hạ cánh an toàn, về nghỉ ngơi dăm ba tháng rồi sang trang đời mới, biết đâu còn khởi phát hơn. Thực lòng thì gã vẫn còn luyến tiếc cái vị trí đã phải bỏ bao công sức mới ngoi lên được, tiền thì không có nhiều nhưng cũng được cái danh để vênh vang với bạn bè, để bà mẹ già có cái cớ mà tự hào với họ hàng làng xóm.
Vợ gã thẽ thọt: “Anh về hưu cứ xin một chân bảo vệ ở mấy công ty bên Hoàng Nha, ngày trực tám tiếng, tháng có dăm triệu, nếu không thì xuống chợ thị trấn phụ em bán hàng.” Nhưng gã lại mắc cái tính sĩ diện. Đường đường là một cán bộ tỉnh mới về nghỉ hưu mà đã phải ra chợ đầm mình trong cái không khí tạp nham hay đi làm bảo vệ gác cổng thì đúng là mất thể diện quá. Nhà nước đã cho nghỉ là nghỉ, lương hưu cũng đủ chi tiêu cho bản thân, có phải ăn bám vợ đâu mà sợ.
Nhận quyết định, suốt cả tuần liêng biêng say với bạn bè chiến hữu, người cứ bã ra, gã nghĩ mình cần phải có thời gian và tâm lý để làm quen với sự nhàn rỗi. Gã khoác ba lô đi thăm thú mấy anh em họ hàng, hết lên Tây Bắc rồi vào Tây Nguyên. Được ba tuần thì vợ gã gọi điện, giọng gắt đanh: “Anh cứ lang bang hết nhà nọ đến nhà kia thế không thấy phiền phức sao, ai rỗi hơi mà tiếp đón anh mãi thế, anh về đưa bà nội đi viện, mấy hôm nay cái khớp gối của bà sưng u lên kìa.” Gã về chăm bà mẹ già nửa tháng ở bệnh viện rồi bắt đầu chuỗi ngày nhàn rỗi, buổi sáng tụ bạ với đám chơi cờ tướng ở quán nước đầu làng, tới bữa trưa về nhà nấu cơm đợi vợ và thằng con trai về ăn; buổi chiều theo mấy ông già trong hội hưu trí đi đạp xe loanh quanh rồi lại về nấu cơm tối. Nhà cửa bếp núc lúc nào cũng sạch tinh tươm.
Vợ gã trước đây là giáo viên mầm non nhưng về nghỉ sớm theo diện tinh giản vì không đủ bằng cấp, xoay sang nghề buôn bán hải sản, nhận mối hàng của cô em gái lấy chồng dưới Quảng Ninh gửi về, buổi sáng bán ở chợ thị trấn, buổi chiều đi “síp” cho các khách đặt. Thời đại công nghệ, chỉ cần một cuộc điện thoại thì thượng đế được phục vụ đến tận răng. Ơn trời, vợ gã nhanh nhẹn hoạt bát và có lộc buôn bán, tuần nào cũng tiêu thụ đến vài tạ hàng, mọi việc chi tiêu trong nhà hầu như trông vào cái sạp hải sản ấy, cô con gái lớn học xong đại học cũng có điều kiện được học tiếp luôn lên cao học.
Chỉ có điều chẳng hiểu sao từ ngày theo nghề bán hải sản vợ gã lại tập thói quen ăn chay, còn huấn luyện cả thằng con trai và bà mẹ chồng ăn theo. Bà mẹ già vốn dĩ căn cơ tiết kiệm, coi việc ăn uống đạm bạc là lẽ sống, ngày vài lưng cháo trắng rắc muối vừng là xong bữa. Thằng Luận từng là niềm mong mỏi của cả nhà, gần bốn mươi tuổi vợ gã mới sinh được nó, vốn lười ăn từ nhỏ, giờ đang tuổi ăn tuổi lớn mà vẫn gầy nhỏng gầy nheo. Vì cưng chiều con nên gã nhiều lần phản đối cách ăn uống ấy thì vợ nhấm nhẳng: “Ngày nào cũng mổ hàng trăm con cá, cái mùi tanh của máu cá ngấm vào từng tế bào, nhìn thấy thịt thà là nghĩ ghê, nuốt không trôi.” Gã giễu cợt: “Vậy thì kiếm việc khác mà làm, chọn cái nghề buôn cá bán tôm mà còn đòi sạch sẽ thanh khiết.” Tức thì vợ riết róng: “Tôi cũng muốn nhàn nhã ăn trắng mặc trơn cho ra dáng phu nhân của quan tỉnh lắm chứ. Nhưng bao nhiêu năm nay tiền lương của anh đủ để anh rải đường. Chắc anh nghĩ con cái anh tự lớn, bố mẹ hai bên ngày càng khoẻ, họ hàng làng xóm tịnh không có đình đám gì cả.” Gã đuối lý nên tặc lưỡi mặc kệ. Trước đây cứ cuối tuần gã về thì mâm cơm mới có món thịt món cá. Gã nghỉ hưu, vợ thủng thẳng khuyên: “Bấy lâu nay anh ra ngoài ăn uống tạp nham thất thường, giờ có tuổi rồi, về nghỉ thì cũng tập ăn chay dần đi. Bệnh từ miệng mà vào. Tu lấy cái miệng cho đời bớt khổ.” Nhưng gã nhất định không nghe. Mẹ già ăn chay niệm Phật theo ý nguyện, vợ ăn chay kệ vợ, con gảnh ăn kệ con, bữa nào gã cũng phải tự tay đi chợ rồi chế biến món mặn theo sở thích của mình. Đời chỉ sống có một lần, sướng khổ do mình quan niệm, tội gì mà phải triệt tiêu cái mục đứng đầu trong “tứ khoái” ấy.
Thời gian đầu về nghỉ, gã thấy ngày dài lê thê theo những ván cờ vô thưởng vô phạt. Không khí trong nhà lúc nào cũng ngột ngạt bức bối bởi tiếng rên rẩm ôn nghèo kể khổ của bà mẹ già ngoài tám mươi lẫn cẫn lúc nhớ lúc quên, tiếng càu nhàu của mụ vợ tuổi tiền mãn kinh và những câu hỏi ngô nghê của thằng con trai tuổi dở ương. Thực tình gã cũng muốn kiếm một việc gì đó để làm cho đỡ buồn chân buồn tay. Trước đây gã từng nghĩ về nghỉ hưu sẽ chơi hoa lan, vừa là thú vui tao nhã vừa là cách làm kinh tế. Nhưng rồi cơn sóng “lan đột biến” tan nhanh như bong bóng xà phòng, bao kẻ khuynh gia bại sản vì những bông hoa cánh trắng mỏng manh khiến gã từ bỏ ý định đó. Gã cũng đã nghĩ đến việc mang nghề trồng quất cảnh của quê ngoại về cái vườn rộng gần hai sào. Nhưng cách đây gần sáu năm, đứa con gái lớn của gã bị viêm cơ tim cấp, gã phải đành lòng bán đi nửa mảnh vườn để chạy chữa cho con. Vả lại, hai cậu em họ đều qua đời vì ung thư phổi, gã ngầm hiểu đó là hậu quả của việc lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình canh tác quất cảnh nên cũng chờn chợn mà từ bỏ ý định làm vườn. Giờ khoảnh vườn nhỏ chỉ còn mấy cây bưởi cây nhãn, đến mùa đủ để chia cho hàng xóm lấy thảo. Về nghỉ hưu, sức thì vẫn còn mà cứ loanh quanh luẩn quẩn thế này kể cũng thấy thừa thãi thật.
Một lần đạp xe ngang qua cánh đồng xã dưới, dừng xe nhấp chút nước vối từ chiếc bình mang theo, gã chợt ngẩn người khi trông thấy một đàn chim ngói sà xuống mấy thửa ruộng vừa gặt. Cánh đồng này nằm trong vùng quy hoạch dự án khu công nghiệp. Đất ruộng thì đã bàn giao cho chủ dự án, tiền đền bù đã biến thành nhà cao xe đẹp, vàng đeo trĩu cổ xệ tai, có khi tan thành khói thuốc rồi. Có những gia đình đổi đời sau một chữ kí nguệch ngoạc giờ lại đang ngồi trong ngôi nhà đồ sộ rỗng không, hút thuốc lào vặt mà tiếc nuối, mà lầm bầm chửi mình ngu dại, không dưng mang tiếng là “đại gia”, khoác lên mình cái danh xưng mỹ miều mà ngao ngán nhìn đàn con cứ lụn bại đi vì đã ăn tiêu hết số tiền bán đất, giờ thì lang bạt khắp nơi mưu sinh, để lại đám cháu nheo nhóc lại cho ông bà già. Có nhà thì lên mạn ngược mua cả đàn trâu bò về thả ở cánh đồng cỏ. Có gia đình vẫn cần mẫn một năm hai vụ, gieo mạ trên sân mang ra cấy trên khu ruộng mình đã bán. Những người nông dân chân chỉ hạt bột ấy lại thầm mong dự án cứ “treo”, năm năm, mười năm cũng được, để họ vẫn được cấy hái thu hoạch trên khoảnh ruộng gắn bó suốt mấy thế hệ. Khi dự án chưa được thực thi thì cánh đồng này là của chung, mạnh ai người đó làm. Chính quyền cũng chỉ đến nhắc nhở chứ không có biện pháp mạnh ngăn cấm. Thế là những vuông lúa cứ xen kẽ với những đám ruộng bỏ không cỏ mọc lởm chởm. Bức tranh đô thị hoá đang trong quá trình tô vẽ nửa chừng, nham nhở những sắc màu, lộm nhộm những hình khối với biết bao hỉ nộ ái ố của phận đời nông dân thất nghiệp.
Gã cứ đứng ngây như vậy, nghe tiếng lũ chim ríu rít tranh nhau lượm mồi. Gã chợt nhớ lại chuyến đi thực tế của cơ quan hồi giữa năm ngoái, từ miền Trung trở về, đoàn ghé vào một quán ăn có cái tên rất dễ bị suy diễn “Chim to dần”. Không phải giờ chính bữa mà quán vẫn đông nghìn ngịt, đám nhân viên chạy bàn tất bật, tay chủ quán béo ục tay cầm cuốn sổ cáu bẩn đi từng bàn ghi chép lia lịa, vừa quát tháo chửi bới nhân viên sa sả đã quay lại sơn sớt nói cười đon đả với thực khách: “Tất cả đều là chim tự nhiên, từ bé như ngón tay đến to như cổ tay. Xin mời các quan anh thưởng thức ạ.” Từng đĩa chim quay có kích cỡ từ bé đến lớn được bưng ra, màu vàng suộm nhóng nhánh ngon mắt. Gia vị ướp rất thơm. Những đôi chân, đôi cánh bé xíu, giòn tan trong miệng. Hỉ hả. Tấm tắc.
Đúng rồi. Sao gã lại không nghĩ đến việc đi bẫy chim nhỉ. Nhiều người coi việc câu cá là thú tiêu khiển rèn đức tính kiên nhẫn, vừa câu vừa chiêm nghiệm sự đời, biết bao kế hoạch mánh lới được nảy ra trong lúc đợi chờ cá cắn câu. Thế thì gã cũng sẽ đi bẫy chim. Chim trời cá nước. Lộc trời ban, bỏ qua cũng hoài, là một cách để giết thời gian trong giai đoạn quá ư nhàn rỗi này. Rồi biết đâu trong lúc đợi chờ chim lọt bẫy, gã lại nảy ra được những ý tưởng mới mẻ.
Nghĩ là làm. Vận dụng vốn kiến thức vật lý còn nhớ được, gã cặm cụi thiết kế một cái bẫy điện. Gã hiểu cái trò giăng lưới, dùng chim mồi để gọi bầy đàn ấy là xưa rồi. Qua thời gian với những bài học xương máu, loài sinh vật nào mà chẳng “khôn ra” để thích ứng với những thử thách khắc nghiệt, tránh được những cạm bẫy. Thời đại công nghệ, tất cả phải nhanh gọn nhẹ, chớp nhoáng và triệt để.
Gã mất ba ngày để chế ra một cái bẫy điện và thực hành với đám gà tre của nhà. Rắc vài hạt thóc, một con gà trống le te chạy tới, lục tục gọi vài ả mái gần đó. Bốn năm con gà bé nhỏ chưa kịp nuốt mấy hạt thóc lép thì “tách” một cái, tấm lưới điện ụp xuống, đám gà giãy giụa quay đơ ra. Gà còn không chịu được nguồn điện năng ấy huống gì những con chim bé nhỏ. Gã mỉm cười đắc thắng. Mấy con gà ấy gã cho vào hầm hạt sen thuốc bắc. Vợ gã không đụng đũa. Thằng con trai nhón mấy hạt sen bở tơi cho vào miệng, nhăn mặt kêu đắng. Bà mẹ già nể con trai, cố ăn được cái đùi bé như ngón tay, lại mủi giải ôn nghèo kể khổ. Cha mẹ gã đông con, cả đời thắt lưng buộc bụng cho các con được ăn học bằng người. Cả năm đến ngày giỗ tết may ra mới biết đến miếng thịt gà. Cha gã ngã bệnh, đến lúc hấp hối chỉ thèm được húp thìa cháo gà. Mẹ gã chạy sang vay tạm của bà chị dâu con gà mái đang ấp dở, hì hụi nấu được bát cháo bưng lên, mới bón cho chồng được hai thìa thì cha gã nấc lên rồi mất. Giờ đang yên đang lành mà dám vật cả đàn gà ra ăn thì đúng là hoang phí đốt giời. Miếng thịt mềm ngậy tự dưng bã bứ trong miệng, gã uống nốt cốc bia dở để nuốt một cái gì vướng nghẹn nơi cổ họng. Bát canh gà lỏng chỏng nguội ngắt.
Có gốc gác thôn quê nhưng thoát ly đồng ruộng từ sớm, bấy lâu đã quen với nhàn nhã phòng giấy máy lạnh, những ngày đầu đi bẫy chim, gã thấy khá chật vật. Đất cằn lổng khổng, cỏ lác cỏ tranh cứa vào chân rát rạt. Nắng nhễ nhại. Mồ hôi đầm đìa. Nhưng khi nhìn những con chim giãy giụa trong lưới điện, gã thấy khoái chí lắm. Đến chính gã cũng chẳng hiểu sao cái cảm xúc quái đản ấy lại đến với mình nhanh như vậy. Trong lúc chờ đợi lũ chim sa lưới, gã chẳng nghĩ được ý tưởng gì cho những ngày sắp tới, chỉ hay nhớ về đoạn đời đã qua của mình. Cuộc đời công danh của gã cũng đã từng vài lần phải dùng thủ đoạn, gài bẫy để hạ bệ đối thủ, nhổ đi những cái gai trong mắt. Cũng phải mất thời gian dền dứ cài cắm, mất thời gian phập phồng chờ đợi. Khi đã nắm chắc phần thắng, ngoài mặt tỏ ra ái ngại nói vài lời đãi bôi: “Chúc đồng chí sẽ phát huy hết khả năng vốn quý của mình ở vị trí mới.” Nhưng trong bụng thì hả hê: “Ngu thì chết, ai khiến tham bát bỏ mâm.”
Bẫy người thì cần thủ đoạn mánh lới, cần cả những thế lực chống lưng thì mới trót lọt. Còn bẫy chim thì thật thoải mái tự do, chỉ cần sự kiên trì. Ngày nào gã cũng có thành quả, ít thì vài ba con, nhiều thì cả túm. Chưa hôm nào gã phải về tay không. Đám chim đựng trong chiếc túi lưới đen lắc lẻo bên hông xe, phía sau chằng buộc lọc xọc bộ đồ nghề, gã ra về, lòng phơi phới vui. Túm chim ấy có khi gã hào phóng cho luôn mấy ông anh bợm nhậu gặp trên đường. Bọn choai choai trong xóm thi thoảng trốn học thêm theo gã ra đồng, nhìn lũ chim ngắc ngoải trong cái lưới điện, mắt tròn mắt dẹt tấm tắc: “Bác Triết bẫy chim giỏi quá. Làm sao mà bác chế ra được tấm lưới điện lợi hại thế này nhỉ!” Gã hỉ hả đắc thắng: “Cái gì cũng phải đổ mồ hôi công sức, phải có trí tuệ cả đấy.” Thằng Hưng con lão Chấn hàng xóm toe toét: “Mà có lẽ từ giờ bọn cháu gọi là bác Triệt mới chuẩn. Bác sát chim thật đấy.” Gã thoáng sững người, mặt sường sượng, muốn mắng át chúng đi chữa ngượng mà chẳng thể cất lời. Cả bọn nhao nhao đồng tình. Từ sau hôm ấy, đám choai gặp gã đâu cũng gọi “bác Triệt, bác Triệt chim”. Người lớn cũng lác đác hùa theo. Bà mẹ già của gã lòng khòng đi từ đầu xóm đến cuối xóm nạt nộ lũ trẻ ranh, trách móc người lớn. Nhưng cái dị danh ấy vẫn bị gọi nheo nhéo, bị mặc định nhanh đến không ngờ.
Việc đi bẫy chim khiến gã thấy ngày trôi nhanh hơn. Thực ra người ta thấy thời gian trôi qua nhanh khi không phải mong ngóng điều gì phía trước. Gã cũng giống như những người nông dân kia, chẳng mong cái sự công nghiệp hoá hiện đại hoá diễn ra nhanh mà chỉ muốn các dự án cứ “treo” thật lâu. Ruộng cứ tăng gia, thóc cứ chở về nhà, chim chóc vẫn còn có chỗ để làm tổ, kiếm mồi. Ai cấy cứ cấy, ai bẫy chim cứ bẫy. Hay đáo để!
Rồi gã có kinh nghiệm khi nhìn độ to nhỏ của đám chim để biết cách điều chỉnh độ xung điện sao cho những con mồi sa bẫy chỉ bị điện giật “chết lâm sàng” chứ không chết hẳn. Có lúc gã chợt cười thầm khi thấy mình “tiến bộ” khá nhanh trong việc làm có tính tận diệt này. Gã mang những con còn khoẻ về thả vào mấy chiếc lồng treo ở cuối vườn. Những con cái mổ nhau chí choé. Những con đực kêu choanh choách đòi ra. Góc vườn nhỏ lúc nào cũng oe oé đủ loại âm thanh. Những con đã yếu thi thoảng được gã biến thành món nhậu mời mấy ông bạn già trong xóm. Gã buộc cả túm chim lại rồi dìm chúng trong thùng nước. Lũ chim cố giãy giụa bằng chút tàn lực cuối cùng. Gã lôi chúng ra để vặt lông. Có con lúc ấy mới ứa ra những giọt máu hồng rực. Chiếc mỏ bé xíu nhoe nhoét. Nhìn những tia máu rịn ra như sợi chỉ rối, tự nhiên tay gã run run và bỗng nghĩ đến thói quen ăn chay của vợ. Ngoài cổng, có tiếng í ới của mấy ông bạn nhậu. Gã giật mình dội ào thùng nước, vội vàng vơ đám chim ra góc sân để thui. Mùi nồng của khói rơm vẩn vơ quyện với mùi nhang trầm từ trong nhà thoang thoảng bay ra. Tiếng xèo xèo của chim thui lửa lọt thỏm trong tiếng gõ mõ lách cách của bà mẹ già. Chiều buông nhanh như vết mực loang.
Bữa tối của mấy ông bợm rượu lúc nào cũng tưng bừng lắm. Hết chuyện thế sự Ucraina với Nga, đến chuyện chỗ này có vị quan chức bị “vào lò” vì tội tham ô, chỗ kia có vụ bắt hàng giả hàng lậu. Câu qua câu lại là quay về chuyện gia đình mình, chê mụ vợ già ngày càng xồ xề khó ở, khen thằng con rể tinh khôn đoán trước thời thế mua được miếng đất trong xóm mà giờ có con đường liên tỉnh chạy qua nên giá tăng gấp năm lần. Thôi thì kệ chuyện thế giới, đánh nhau tận bên Tây chẳng thể ảnh hưởng đến những lão già đã cầm chặt mấy triệu lương hưu; chỉ có rượu giả, thuốc giả, thức ăn giả là cần lưu ý cẩn trọng. “Thế thì hoá ra cái món chim trời của ông “Triệt” vẫn là đặc sản, ăn là yên tâm nhất. Ông phải tính phát triển cái ngón nghề này, giống như những quán “Chim to dần” bên Hà Nam ấy.” Những tiếng cười khùng khục phát ra từ khuôn mặt đỏ lựng. Bữa rượu tàn dần. Những cái bóng lảo đảo hắt lên tường thành những hình thù kì quái. Ngà ngà tiễn khách, chạm vào những bàn tay khô sần lạnh ngắt, trong lòng gã bỗng cồn lên cảm giác bứt rứt bất an. Ngoài hiên, bà mẹ già vừa nhai trầu vừa rỉ rả nói một mình về chuyện nhân quả ở đời, những vệt quết trầu loang lổ sẫm lại dưới ánh điện lấp loá.
Có lần gã bẫy được cả những con yểng, con hoàng yến bị xổng lồng theo lũ chim trời đi kiếm ăn. Gã mang chúng về nhốt riêng rồi lên mạng lần mò tìm hiểu cách chăm sóc. Nhưng lũ chim cảnh ấy thường rất yếu, đã dính vào luồng điện là lông rụng xác xơ, bị nhốt vào chuồng lạ, nhất định không chịu ăn uống gì và chỉ lay lắt sống được vài ngày. Trước đây gã từng nghe chuyện có những loài chim tuyệt thực rồi chết theo bạn tình, gã không tin. Giờ gã mới thấy những con chim đã thoát khỏi cảnh tù hãm nếu chẳng may bị bắt trở lại thì sẽ bỏ ăn mà chết chứ nhất định không chịu sống tiếp kiếp cầm tù. Thì ra khát vọng tự do có phải đâu của riêng loài người. Về nghỉ hưu, gã ngỡ thoát khỏi những bon chen đòn ngón, được tự do tự tại, nhưng biết đâu lại đang loay hoay trong chuỗi ngày nhàn nhã đến vô vị, lùng bùng trong chính tấm lưới mà mình giăng ra.
Hết mùa gặt, bóng chim vắng hẳn, vì một tay sát chim như gã hay vì lũ chim biết truyền nhau về sự nguy hiểm rình rập ở những thửa lúa trong vùng quy hoạch này? Gã sẽ phải đi xa hơn, ngược lên cánh đồng bãi xã trên. Trên đó người dân vẫn trồng dong riềng. Đám chim có khi trốn vào những ruộng dong riềng xanh mướt, dù nguồn thức ăn eo hẹp nhưng lại có chỗ trú ngụ an toàn hơn. Ý định là thế nhưng gã chưa nghĩ ra cách bẫy hiệu quả giữa vùng xanh um bạt ngàn đó. Chắc là phải mất vài ngày thăm dò địa hình và nắm được quy luật đi đi về về của lũ chim phía ấy đã.
Chưa kịp mang bẫy giăng đến vùng đồng đất mới thì nó lại dở chứng. Mà gã thì phải đi ăn cỗ cưới con của sếp cũ, tranh thủ thăm thú tụ bạ với đám đồng nghiệp cũ vài ngày. Thôi thì cứ đi đã rồi về tính sau. Chiếc taxi bấm còi toe toe ngoài cổng, gã khoác ba lô lên vai, thấy thằng Luận vẫn dán mắt vào màn hình máy tính chơi game, gã quay lại dặn dò nó vài câu, bảo rằng đừng cho trẻ con hàng xóm nghịch vào cái bẫy điện của bố để ngoài đầu hiên nhé, nó đang trục trặc. Chẳng biết thằng Luận có nghe rõ không mà mồm cứ liến thoắng: “Vâng. Lên đi. Vâng. Tránh chỗ ấy ra. Máu kìa. Vâng. Chết rồi. Vãi chưởng. Tham thì thâm mà. Vâng. Bố cứ yên tâm đi. Chiều con sẽ gọi xe ôm đưa bà sang nhà cô Lý để bà ở đó chơi vài hôm.”
Xong tiệc cưới, cả đám bằng hữu rủ nhau đi thăm Đảo Cò. Gã ngồi cùng thuyền với tay Hoành chánh văn phòng và Diễm Loan thư kí. Gã chợt cười thầm khi nhớ lại một phi vụ từng dùng Loan làm “chim mồi”. Loan vẫn hồn nhiên như bản tính vốn có, lại trổ tài ca hát, giọng ngọt thanh, hàm răng mới trám sáng loá, đôi mắt đen láy lúng liếng. Điện thoại bất chợt rung lên trong túi quần, gã duỗi chân để moi ra, vô tình chạm vào bắp chân trắng bù bụ của Loan, tim chợt đập thình thịch. Là vợ gọi, gã nhấn phím tắt, mắt liếc ngang cô thư kí, tay huơ huơ múa phụ hoạ theo những lời ca tha thiết. Điện thoại lại rung lên. Tay Hoành cười ranh mãnh: “Lại bị 113 kiểm tra hả?” Gã cười giả lả, ngón tay nhấn vào phím nghe mà như muốn lõm màn hình. Giọng vợ hốt hoảng: “Anh về ngay, thằng Luận bị điện giật.” Gã cuống cuồng bảo người lái thuyền quay trở lại bờ. Chiếc thuyền tròng trành. Đám đồng nghiệp lao xao. Có ánh mắt cảm thông. Có cả nụ cười nửa miệng ranh mãnh.
Hơn nửa tiếng sau gã đã về đến phòng cấp cứu của bệnh viện đa khoa cách nhà gần chục cây số. Vừa hấp tấp bước xuống xe, vợ gã lao ra túm lấy áo gã gào lên: “Nó táy máy sửa cái bẫy chim cho anh đấy. Trời ơi là trời. Nó mới học lớp bảy, biết gì về điện đâu. Tôi đã nói với anh bao nhiêu lần rồi. Bỏ cái trò bẫy vợt sát sinh ấy đi. Ăn của rừng rưng rưng nước mắt. Giờ thì anh bẫy chim hay bẫy chính con anh đây?” Gã muốn quát thị uy mà hai hàm răng cứ run lập cập chẳng thể cất thành lời. Căng mắt nhòm qua khe cửa, gã thấy mấy bác sĩ đang vây quanh con trai mình. Người xốc tim, người cắm ống truyền, người sơ cứu bàn tay bỏng rộp của thằng bé. Tiếng máy trợ tim kêu tít tít mà như những nhát búa tạ nện vào óc gã. Mồ hôi vã ra đầm đìa. Tim gõ thình thịch như tiếng đập cánh giãy giụa.
Những giây phút sinh tử trôi qua nặng nề đến nghẹt thở. Cánh cửa hé mở, gã lao tới. Bác sĩ trưởng khoa gỡ găng tay, giọng trách cứ: “Bệnh nhận bị ngưng tim đột ngột, nghĩa là chết lâm sàng đấy. Cũng may gia đình đưa đến kịp thời. Giờ thì cháu đã qua cơn nguy kịch. Nhưng nó gầy yếu thế, gia đình chuẩn bị phải truyền máu. Đợi nhịp tim của cháu ổn định, chúng tôi sẽ chuyển lên khoa ngoại. Bàn tay trái của nó bỏng nặng quá…”
Gã chộp lấy cánh tay của vị bác sĩ già: “Tôi là bố cháu…Tôi nhóm máu O…”
Gã nghiêng người quay mặt về phía thằng Luận, nhìn sợi dây truyền bé xíu đang đưa từng giọt máu vào cơ thể con, khuôn mặt tái xanh của nó dần có sắc hồng, ngực gã như trút được tảng đá chèn ngang nhưng trong tai vẫn cứ lùng bùng những âm thanh quái đản. Lạch tạch như tiếng đập cánh. Sồn sột như tiếng cào lồng đòi ra. Thảng thốt như tiếng vẫy vùng kêu cứu.
***
Chiều nhạt nắng, vợ chồng gã đưa con về nhà. Ở viện với con mấy hôm, tự dưng gã có cảm giác lạ lẫm cả với khoảnh vườn nhỏ của mình. Mấy chiếc lồng lủng lẳng khô khốc, lũ chim xơ xác, mắt ngơ ngác như những vì sao lạc. Gã bần thần nhìn chúng rồi rút soạt cái cửa lồng, động tác dứt khoát hơn cả lúc bấm công tắc bẫy điện. Có con bay vút lên, có con loạng choạng sà xuống thấp rồi cũng cố sức vẫy vùng chấp chới bay lên đậu trên cành nhãn. Quay đầu nhìn về phía góc hiên, gã không thấy chiếc bẫy điện của mình đâu nữa. Gã nén lòng thở ra nhè nhẹ. Trong nhà, mùi nhang trầm thoang thoảng mênh mang, bà mẹ già ngồi dưới ban thờ, tiếng gõ mõ tụng kinh đều đều cất lên trong chiều chạng vạng.
Bài viết liên quan: