Văn học Việt Nam là sự hợp lưu của nhiều dòng chảy đề tài, nội dung, hình thức thể hiện và đối tượng phục vụ. Trong đó văn học viết cho thiếu nhi nói chung, thơ viết cho thiếu nhi nói riêng là một bộ phận quan trọng. Từ xưa, văn học thiếu nhi đã xuất hiện cùng với sự ra đời của đồng dao, hát ru, truyện kể dân gian. Tìm hiểu thơ thiếu nhi đương đại, chúng tôi thấy nổi lên mấy đặc điểm khá rõ.
Cái nhìn trẻ thơ trong trẻo với không gian nông thôn thân thuộc
Thơ là tiếng nói cảm xúc của con người trước cuộc sống. Đọc thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa, mỗi chúng ta như bắt gặp thế giới tuổi thơ của chính mình. Không gian sáng tác của “nhà thơ thần đồng” ấy bắt đầu từ “Góc sân và khoảng trời”. Ở đó có bầu trời trong xanh cao vút, rộng lớn, xa xa là hình ảnh dòng sông quê hương với những cánh cò bay chớp trắng:”Góc sân nho nhỏ mới xây/ Chiều chiều em đứng nơi này em trông/ Thấy trời xanh biếc mênh mông/ Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy” (Góc sân và khoảng trời).
Cũng từ không gian ngôi nhà tuổi thơ, tác giả cảm nhận thiên nhiên quanh mình sống động, đáng yêu vô cùng, nhất là thời điểm khi nhưng tia nắng đầu tiên vừa ló dạng: “Ông trời nổi lửa đằng đông/ Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay/ Bố em xách điếu đi cày/ Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khau/ Cậu mèo đã dậy từ lâu/ Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng…” (Buổi sáng nhà em).
Nhà thơ Lê Hồng Thiện (sinh năm 1943 tại Hưng Yên), “ông vua thơ thiếu nhi đương đại” – chữ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – có 16 tập thơ thiếu nhi và hàng ngàn bài viết. Thế giới trong thơ ông là rất nhiều bức tranh cảnh vật sống động. Ở đó, nhà thơ lắng hồn mình vào tâm trạng, cảm xúc của em nhỏ để quan sát cuộc sống với ánh mắt ngây thơ, ngộ nghĩnh. Tên các bài đã thấy điều đó: “Đồng hồ mặt trời”, “Đèn đom đóm”, “Nắng thăm nhà bé”, “Gà trống Choai”, “Gió”, “Mặt trời ngủ đâu”, “Đèn trăng”, “Hạt Sương”, “Nắng và bé”, “Rô ron và trăng”… Mỗi sáng tác là kết quả của sự quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, bất ngờ, thú vị. Chẳng hạn bài “Lá hát”: “Cứ mỗi một chiếc lá/ Là một nốt nhạc vui/ Gió là người lĩnh xướng/ Cho lá hát lá ơi…”. Thi nhân như thổi hồn vào cây lá, mây trời khiến mỗi sự vật, hình ảnh như mang tâm hồn, tình cảm, hành động của con người.
Nhà thơ Hoài Khánh (1963 – Hải Phòng) với “bốn mươi năm thủ thỉ cùng em thơ” cũng có nhiều tập với hàng trăm bài viết cho thiếu nhi, một số bài đã và đang được dạy trong chương trình phổ thông như: “Mỗi lần cầm sách giáo khoa”, “Chú hải quân”; riêng bài “Đồng hồ báo thức” đã hai lần được tuyển (cả trước đây và bộ Cánh Diều hiện nay), được đăng trên Tạp chí Thơ châu Á. Trong bài, nhiều hình ảnh rất ngộ nghĩnh: “Bác kim giờ thận trọng/ Nhích từng li, từng li/ Anh kim phút lầm lì/ Đi từng bước, từng bước/ Bé kim giây tinh nghịch/ Chạy vút lên trước hàng/ Ba kim cùng tới đích/ Rung một hồi chuông vang!”. Ngôn ngữ thơ dung dị mà gợi tả, gợi cảm và rất cuốn hút.
Thơ thiếu nhi của Phạm Thị Phương Thảo cũng đậm chất quê. Ở đó, nhà thơ hóa thân vào em nhỏ để thấy những chú “Chim bói cá vồ mồi”, thấy “Dế mèn tự hát”, “Đàn ong hát đồng ca” và những chú nhện, chú xiến tóc kiếm mồi. Mỗi bài thơ là một biểu hiện sinh động cái nhìn sự vật ngây thơ, đáng yêu vô cùng. Bài thơ “Chuồn chuồn cõng nắng” có những câu thật dễ thương: “Chuồn chuồn mở hội ngày hè/ Vui trong đám cỏ thích khoe cánh vàng”. Mỗi bài thơ là một mảnh ghép góp phần dệt nên bức tranh quê hương sinh động, tươi đẹp.
Tuy sinh sống nơi phố thị nhưng thơ Phan Thị Thanh Nhàn (1943 – Hà Nội) cũng là không gian nông thôn: “Em yêu đồ đạc trong nhà/ Cùng em trò chuyện như là bạn thân/ Cái bàn kể chuyện rừng xanh/ Quạt nan mang đến gió lành trời xa/ Đồng hồ giọng nói thiết tha/ Nhắc em ngày tháng thường là trôi mau…” (Đồ đạc trong nhà). Dùng phép nhân hóa, tác giả khiến các vật dụng trong nhà cũng biết nói năng, suy nghĩ, có tâm trạng như con người.
Ảnh bìa một số tác phẩm thơ thiếu nhi xuất bản gần đây.
Bồi dưỡng nhận thức tâm hồn trẻ thơ, có ý nghĩa giáo dục tự nhiên
Văn học nghệ thuật có những chức năng riêng. Thơ thiếu nhi cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tâm lý trẻ là vui tươi, học mà như chơi, chơi mà lại học. Thơ có đáp ứng được yêu cầu đó mới hấp dẫn bạn đọc nhỏ tuổi. Tập thơ “Cây trăng” (2023) của nhà thơ Phương Anh, là bức tranh chân thực, sinh động về cuộc sống được phản ánh qua đôi mắt trẻ thơ. Bài thơ “Được mùa” thể hiện qua ngôn ngữ thơ giản dị: “Đã bước vào vụ gặt/ Làng xóm nhộn nhịp ghê/ Từng chuyến xe đi về/ Sân nhà phơi đầy lúa/ Nắng trải vàng như lụa/ Hong hạt thóc khô giòn“. Đây bức hoạt cảnh giàu âm thanh, đường nét, màu sắc, ở đó con người và các con vật đều lao động hăng say. Lúa được mùa là đền đáp công lao vất vả của người cấy trồng. Từ góc sân nhỏ nhà em phơi đầy lúa “Nắng trải vàng như lụa” ấy gieo mầm và nuôi dưỡng tình yêu cha mẹ, yêu con người, yêu thôn xóm, làng quê và yêu đất nước.
“Được bố khen” lại là bài học cụ thể về lòng dũng cảm cho trẻ qua những hành động các em gặp phải trong sinh hoạt thường ngày: “Bé bị vấp ngã/ Nhưng không khóc đâu/ Cố gắng chịu đau/ Tự mình đứng dậy/ bố nhìn thấy vậy/ Gọi bé đến gần/ Xoa đầu bố khen: “Con yêu dũng cảm”. Nhà giáo, nhà thơ Nguyễn Thu Sang trong tập thơ “Ngọt khúc đồng dao” (2023) có nhiều bài giáo dục các em tình yêu con người, nhất là những người không may mắn (Nỗi đau da cam), tình yêu quê hương (Quê hương), tình gia đình (Nhà). Điểm đáng ghi nhận rõ ở tập thơ là tác giả hướng con trẻ lòng biết ơn và nguyện tiếp bước các chú hải quân ngày đêm đang canh giữ biển đảo và bình yên cho mọi nhà: “Chưa được đến Trường Sa/ Nhưng em yêu thiết tha/ Biển quê hương ta đó… Mai cháu lớn lên rồi/ Cháu sẽ ra giữ đảo”.
Việc tìm hiểu và khái quát lên mấy đặc điểm thơ thiếu nhi mang ý nghĩa tương đối bởi ngay trong từng bài, nội dung này cũng thể hiện đậm nhạt khác nhau.
Thế mạnh của thể thơ đồng dao và lục bát
Đồng dao là thể loại văn học tự sự bằng văn vần. Đó là lời của những bài hát dân gian trẻ em. Đồng dao thường sử dụng những câu ngắn, phổ biến là ba – bốn hoặc năm chữ. Còn lục bát là thể thơ truyền thống gồm câu 6 chữ nối với câu 8 chữ theo quy định về luật bằng trắc. Cũng như các thể thơ khác, đồng dao và lục bát đều có quy tắc gieo vần giữa các câu, tạo nên một sự kết nối mạch lạc, trôi chảy. Cả hai thể loại này đều có chung nguồn gốc từ cái nôi văn học dân gian: đồng dao, hát ru, cổ tích.
Thơ thiếu nhi của Phan Thị Thanh Nhàn có một số bài được chọn trong sách giáo khoa bậc tiểu học cả trước đây và hiện nay. Những bài hay nhất đều viết theo thể bốn chữ (“Làm anh”, “Chiếc kim khâu”, “Bé Hà”), thể năm chữ (“Nàng Tiên ốc”, “Ngựa biên phòng”, “Truyền thuyết trên đảo Côn Sơn”…), hoặc thể lục bát (“Tóc của mẹ tôi”, “Đồ đạc trong nhà”). Thơ thiếu nhi của Xuân Quỳnh (1943 – 1988) cũng tương tự như vậy. Hầu hết có số chữ và âm điệu như những bài đồng dao: “Que chuyền”, “Chuyện cổ tích về loài người”, “Ngôi nhà ở lại”…
Đặc biệt thơ thiếu nhi của Nguyễn Lãm Thắng (1973 – Quảng Nam) hơn một nghìn bài, có hàng chục bài được dùng trong sách giáo khoa hiện nay. Tất cả thơ ấy đều được biểu đạt theo hình thức như trên đã nói. Có khi là thơ bốn chữ (“Bé đi học võ”, “Hoa giấy”, “Dạo phố”), thơ năm chữ (“Giờ ra chơi”, “Con đường làng”, “Đôi bàn tay bé”, “Trong giấc mơ buổi sáng”…), có khi là thơ lục bát (Mùa xuân em đi trồng cây).
Biện pháp nghệ thuật trong thơ thiếu nhi cho thấy phép nhân hóa được dùng với tần xuất phổ biến nhất. Nhân hóa là làm cho sự vật và hiện tượng cũng mang những thuộc tính của con người. Ngoài ra, so sánh, liên tưởng cường điệu, điệp ngữ cũng được các nhà thơ ưa dùng để mỗi bài thơ thiếu nhi trở nên hấp dẫn và thú vị.
Trẻ em hôm nay – thế giới ngày mai, đầu tư và quan tâm đến thiếu nhi là sự đầu tư thông minh cho tương lai. Song hiện nay, văn học thiếu nhi đang đứng trước những thách thức lớn bởi sức hút và cám dỗ của công nghệ và mạng xã hội với nhiều trò chơi điện tử khiến thiếu nhi không mặn mà với việc đọc. Điều này đòi hỏi các nhà văn phải đổi mới chính mình; gần gũi thiếu nhi hơn để nắm bắt đúng và trúng nguyện vọng của các em, để nuôi dưỡng cảm xúc, viết ra những tác phẩm hứng thú. Muốn vậy, nhà văn cần viết bằng cái nhìn và trái tim trẻ thơ nhưng với trí tuệ của nhà thông thái.
NGUYỄN THỊ THIỆN/VNCA
Trích nguồn: Vanvn.vn
Bài viết liên quan: