CÁI CHÂN GIẢ Ở NGHĨA ĐỊA LÀNG – TRUYỆN NGẮN của NGUYỄN TRỌNG LUÂN

Anh Thuộc thương binh về làng vào đêm cuối năm rét ơi là rét. Họ kể anh Thuộc đi từ ga tàu về nhà chỉ hơn cây số mà đứng khóc mấy lần. Gần sáng thì về đến nhà. Cái nạng gỗ lọc cọc trên đường sỏi gan gà làm chó sủa ong óc. Anh chống cái nạng giữa sân ngó chum nước tối thui, ngó cây cau vẳn cái túm lá cau buộc từ thân cây chĩa xuống miệng chum làm máng như con bù nhìn trong đêm. Mủi lòng quá. Anh chả dám gọi cửa. Vợ anh, con anh còn đang ngủ. Anh ngó xung quanh nhà cửa vườn tược y nguyên thế mà anh còn có một chân. Ngày đi anh ôm lấy đứa con lớn vợ anh bế đứa nhỏ níu áo anh mà khóc mà dặn rằng, đi cố mà về với vợ với con anh nhé.

Anh trở về đây rồi, một chân gửi lại ở miền đông Nam bộ. Anh đứng đó mà nghe tiếng ếch nhái côn trùng ở quê nỉ non nức nở trong sương lạnh. Lúc ấy đã gần đến tết. Cả làng cả xã đang bừng lên những tin tức sắp hoà bình chiến thắng đến nơi. Đâu đâu người ta cũng bàn chuyện ông Lê Đức Thọ đi Pa – ri. Đi chuyến này là kí kết hoà bình. Thằng Mỹ dứt khoát phải khuất phục trước tinh thần kháng chiến của ta. Anh Thuộc về làng, ai cũng nhìn anh hân hoan, họ coi anh và các anh bộ đội làng ta toàn những nhân vật quan trọng cho sự hoà bình sắp tới. Chỉ vài hôm sau là cả xã quen với tiếng lọc cọc đi lại của anh trên đường làng. Ngay cả lũ chó trong xóm cũng không còn sủa nữa. Chúng cũng đã quen với tiếng lọc cọc bất thường từ cái nạng gỗ của anh. Sau tết thì Hiệp định Pa – ri kí kết. Anh thương binh Thuộc gục mặt vào gốc cau, anh bỏ nạng ôm chặt thân cây cau mà khóc. Ngoài làng tiếng trống cà rình thiếu nhi vang rộn rã. Đâu đâu ai cũng hân hoan tưởng như chỉ mai kia thôi là con họ chồng họ đang chiến đấu chống giặc trong Nam hay ở công tác chỗ nào đó sẽ về ngay với họ.

Anh Thuộc chống nạng lên Uỷ ban Xã. Lại vẫn ông Chủ tịch ngày anh đi bộ đội tiếp anh. Lần này thì ông Chủ tịch gọi anh là đồng chí không giống lúc anh và vài trai làng lên đường mấy năm trước. Lúc ấy Chủ tịch xã gọi những người ra lính là các em. Các em phải quyết tâm giữ gìn truyền thống quê hương mình. Phải nhớ lời tuyên thệ “Ra đi giữ trọn lời thề / chưa hết giặc Mỹ chưa về quê hương” Chuyện anh Thuộc lên đường khi đã ba mươi tuổi lại có ba con hồi ấy cả làng cũng xì xào rằng ông Chủ tịch xã không ưa anh Thuộc mà đẩy anh ấy đi lính. Rằng thì là, chính anh Thuộc là người nhìn thấy ông ấy hủ hoá với chị cán bộ hội phụ nữ ở bãi giong riềng ngoài đê. Chẳng ai thấy họ cãi cọ gì nhau, chuyện làng đồn thì nhiều kiểu lắm, ai mà nghe và tin cho xuể. Thiên hạ cứ như là bố người khác chỉ giỏi đồn đại chưa biết đúng sai cũng nói đóng sống vào người ta như đúng rồi.

Anh thương binh Thuộc được xã giao cho việc quản lí trông coi nghĩa địa của làng. Chủ tịch xã bảo với anh Thuộc, đồng chí cũng quen việc chết chóc, không nề hà chọn việc, hơn nữa tinh thần đảng viên giao cho đồng chí ra nghĩa địa là hợp lí và rất có tính đảng. Anh Thuộc im im. Nhiệm vụ đảng giao như ông Chủ tịch xã nói là dọn vệ sinh mồ mả dọn cỏ hoang cây dại, đuổi trâu bò không cho vào ăn cỏ mà phá phách mồ mả dân làng. Nhắc nhở những gia đình có đám thực hiện đúng yêu cầu của làng xã, thực hiện nếp sống mới mà xã nhà đã quy định. Ngoài ra nhiệm vụ của đồng chí phải thường xuyên hương khói cho cái miếu thổ công giữa nghĩa địa làng.
Thế mà khối việc. Chả ai quen ngay được việc kể cả là anh Thuộc đã quen với chết chóc. Những ngày đầu anh Thuộc chống nạng nhìn những đám ma người ta than khóc não nề, những tiếng kêu gào kể lể nghĩa tình ân oán với người vừa chết ám ảnh anh hàng đêm hệt như những lần anh và đồng đội cõng xác đồng chí hi sinh ra khỏi trận địa. Họ bảo làm nghề gì ăn nghề ấy, nhưng anh Thuộc chả biết ăn gì ở đây. Ngày ấy không như bây giờ vuông đất để chôn nhau là nghĩa là tình là đạo lí làng quê. Chả ai phải mang tiền đút lót để kiếm chỗ nằm dưới ba tấc đất đẹp hơn rộng hơn người khác. Người ta không hỉ hả khoe khoang rằng đã có miếng đất hậu sự to hơn họ nhà này nhà kia. Việc của anh là chăm nom trông coi mồ mả dân làng không phân biệt mả người giàu mả kẻ nghèo, ông to bà cả có chức sắc hay chỉ là dân thường. Mà dân thường cũng không phân biệt nhà đông con nhiều cháu hay mả người neo đơn ít cháu ít con, thậm chí những nấm mồ độc đinh cô quả ông cũng chu đáo như nhau.
Những ngày mới ra nghĩa địa làng anh Thuộc cứ thấy nhớ day dứt người bạn lính quê Nam Hà gần một năm cặp đôi đi vượt Trường Sơn ra Bắc. Trên đường giao liên, người ta ghép từng cặp thương binh với nhau để người này giúp đỡ người kia lúc hành quân. Cũng như lúc đi vào thương binh đi ra phải nương tựa vào đồng đội. Họ dựa vào nhau trên con đường dằng dặc để về với quê hương. Mà cấp trên cũng khéo thật. Anh Thuộc nghĩ thế. Họ ghép anh mù đủ chân tay đi cùng anh mắt sáng nhưng mất chân hoặc mất tay. Cứ thế mà dắt nhau đi. Anh Thuộc cụt một chân thì tựa vào anh cụt một tay. Cứ thế họ bổ sung cho nhau trong gian nan vất vả nhưng rồi cũng vượt lên được. Cặp đôi của anh Thuộc là một anh cụt tay người Nam Hà. Đi mất già một tháng bên đất miên mới đến đường dây 559. Con đường Trường Sơn lúc đi ra gian khổ chả kém lúc đi vào. Mất 6, 7 tháng lúc đi xe lúc đi bộ lúc được giao liên khiêng cáng các anh mới ra đến Quảng Bình. An dưỡng đôi ba tháng rồi chia tay nhau ai về nhà nấy với vợ con ruộng đồng. Mà ai cũng như ai thôi, rời chiến tranh ra về là chả mấy khi nhớ lại lúc khốn khó ác liệt vì lăn vào mưu sinh. Đời người lính vất vả thiếu thốn tứ bề. Chỉ đến khi yên hàn, đến khi cuộc sống an bài rồi mới hay nghĩ lại lúc trai trẻ hay lúc hàn vi.

Ở quê vài tháng anh Thuộc được gọi về xưởng Dụng cụ Thương binh tỉnh. Ở đấy ho đo đếm làm cho anh cái chân giả. Nghe cán bộ kĩ thuật bảo, anh là may lắm đấy, còn cái khớp gối nên cái chân giả của anh vẫn đi lại dễ dàng. Cũng phải mất vài tháng thì anh Thuộc mới quen với cái chân giả. Khúc chân dưới gối lúc đầu đau buốt ngứa ngáy mãi cũng thành chai lì và quen với tình hình mới. Từ đó anh Thuộc đi đến đâu tiếng cậm kịch theo đến đó. Bây giờ chó trong xóm lại sủa vì cái tiếng động mới. Tiếng cậm kịch của cái chân giả. Lâu rồi cũng quen dần, chó trong xóm lại không không sủa nữa. Chó không them sủa nữa đâm ra anh Thuộc cũng buồn buồn. Tiếng cậm kịch từ cái chân giả là một phần không thể thiếu của công dân tên Thuộc. Tiếng cậm kịch hàng ngày từ khu mả này sang khu mả kia cần mẫn lương thiện. Nhưng dần dần thì cái chân giả có đủ bàn chân vẻ như không hợp với hoạt động của anh Thuộc giữa lớp lớp mồ mả đang được bê tông hoá. Các lối đi dần bé lại khiến cái bàn chân cứng kều rất hay va vấp vào những vỉa bê tông của những ngôi mộ ngày càng cơi nới ra. Anh Thuộc liền tháo bỏ cái bàn chân và chỉ giữ cái ống đồng là cái ống thép phi 50 cho gọn và dễ bề lách cái chân giả lúc đi lại giữa những ngôi mộ làng.

Chục năm sau người làng gọi là anh Thuộc là ông. Ông Thuộc nay đã rất hoàn thành với vị trí công tác của mình.
Chả giống như những người khác công vụ nơi công sở hay chí ít là sản xuất nơi ruộng đồng. Những suy nghĩ trưởng thành thăng tiến của họ diễn ra ở nơi văn phòng tinh tươm công trường rộn rã, đồng xanh màu mỡ. Đằng này qua thời gian ý nghĩ sự khôn dại đi lên của ông Thuộc lại diễn ra ở nghĩa địa, ở nơi mồ mả người nhà quê. Năng suất lao động của ông không thể tính theo số mồ mả tăng lên hoặc ít đi. Thành công của ông năm này qua năm khác thật khó đo đếm tính toán mà chỉ là sự cảm nhận mà thôi. Kể từ khu mộ hung táng đến khu mộ cải táng từ ngày có ông Thuộc đều khô ráo sạch sẽ. Ông trồng hoa, trồng cây xanh, dọn dẹp vàng mã quét tước từng ngôi mộ. Ông rất chăm chỉ nhang đăng hương khói ở miếu làng. Từ sáng sớm đến chiều tối cứ cậm kịch cái chân giả hết mồ này sang mả khác.
Công việc ở nghĩa địa nên ông ít khách khứa. Ông trở thành ít nói. Đời cứ bắt ông phải ngẫm ngợi sau mỗi vụ tang gia. Chỉ khi có đám ma thì mới lại nó người bâng quơ chào hỏi vài câu với ông. Trong tang ma ai lại bộc lộ tâm tình làm gì. Ông Thuộc trở thành người cả nghĩ và ông rất hay hồi ức.
Đời người không phải lúc nào cũng hồi ức như nhau. Mỗi tuổi khác nhau nó làm cho người ta nhớ yêu những điều khác nhau. Lúc trẻ người ta hay đố kị so sánh hay nghĩ về tiền bạc chỗ đứng chỗ ngồi của mình. Đến lúc nhiều tuổi con người bớt đi cái sự cố chấp ghét nhau. Càng nhiều tuổi thì càng buông thù dai để nghĩ những ân tình xưa cũ và rất hay nhớ lại những điều vụn vặt con con.

Lúc mới về làng, ông Thuộc vẫn còn cay cú chuyện lão Chủ tịch đẩy ông đi bộ đội khi ông đã quá tuổi chỉ vì giấy khai sinh của ông không chính xác. Ông hay nhớ lại cái chuyện hủ hoá của Chủ tịch ngày xưa. Ông đi từng ngôi mộ đọc những cái tên người nằm dưới mồ và nhớ những kỉ niệm của người quá cố . Ông này bà này đã có lần chửi bới nhà mình. Ông này bà này ngày xưa hay phê bình người khác đi làm sau kẻng. Ông này bà kia đã từng ăn cắp vặt. Lại có ngôi mộ mà ông Thuộc nhớ rất rõ đấy là ông lão hay bẫy gà nhà hàng xóm. Đi một vòng nghĩa địa là cả một làng hiện lên với cơ man nào là vụ việc. Năm tháng qua đi ông cũng chả mấy quan tâm và để bụng ấm ức những chuyện khúc mắc với ai nữa. Chuyện hủ hoá của ông Chủ tịch cũng giống như chuyện các lính tráng đi vào khu 4 chêu ghẹo chị em TNXP và cấu véo thôn nữ trên đường hành quân.

Ngoài năm mươi tuổi ông Thuộc chưa bạc tóc. Hôm ấy ông dọn cỏ ngôi mộ cụ giáo đã dạy ông hồi nhỏ. Cụ giáo ngày xưa đã có lần gõ cái thước kẻ vào mu bàn tay ông Thuộc vì ông vẽ bậy và lại không thuộc bài. Ông Thuộc thắp nén hương cắm lên mộ cụ giáo lậy cụ. Thưa thày em nhớ lắm khi thày nói trước lớp “ tên là Thuộc mà lại không thuộc bài. Em có biết người mẹ nào khi đẻ con ra cũng đặt một cái tên gửi gắm nỗi mong chờ con mình lớn lên tốt đẹp không?” Mà lạ lắm ở nghĩa địa làng mỗi khi ông đến chỗ mộ nhà ai mà ông vặt cỏ sửa sang gì đó là ông thấy họ như hiện lên tâm sự với ông. Trong khói hương lơ mơ, ông Thuộc thấy như cụ giáo hiện lên cười hiền với ông. Ông Thuộc bước sang mộ ông Chủ tịch xã. Loay hoay thế nào mà cái chân giả đá vào cái chân thật của ông khiến ông ngã lăn vào ngôi mộ ốp đá rất đẹp. Ông chống tay ngồi dậy, dựa lưng vào mộ ông Chủ tịch. Ông tháo cái chân giả ra tay xoa xoa vào mỏm chân cut. Mỏm chân cụt da đã nhúm lại ông sờ vào chỉ thấy tê tê. Ông bấm bấm vào da thịt mình rồi tay lấy cái điếu cày châm đóm hút thuốc lào. Đã lâu lắm ông không hay nhớ lại chuyện mình đã bị cụt chân thế nào. Thậm chí có lúc ông không nhớ là người ta gọi ông là Thuộc cụt từ bao giờ nữa. Cứ như cái tên Thuộc cụt có từ lúc ông còn bé mới ra đời. Có lúc ông thầm nghĩ, mẹ nó cái tên người không chỉ là tên gọi mà nó mang số mệnh người thì phải. Bỗng trí nhớ ông Thuộc sáng láng hẳn lên. Cái đêm ông bị đạn cối cưa đứt chân hiện về thật rõ. Sau chiến dịch Mậu Thân đợt hai đơn vị ông không còn đủ lực tấn công vào các căn cứ lớn của địch mà vây đánh địch ở các ấp nhỏ lẻ. Địch gọi pháo cối các căn cứ khác chị viện. Lúc đang rút ra khỏi ấp thì ông trúng quả cối. Anh em khiêng ông chạy về phẫu của tiểu đoàn dưới một vườn dừa. Ông Thuộc không nhớ cái đoạn họ cưa chân mình ra làm sao nhưng laị rất nhớ những ngày các cô du kích chăm sóc mình. Sao mà gái Nam bộ họ cứ gọi lính miền Bắc là anh hai. Mà giọng con gái gọi anh hai ơi anh hai à sao nó thân tình đến lạ. Đi suốt từ bắc vào nam người lính tên Thuộc đã từng nghe đủ tiếng khu 3 khu 4 khu 5 rồi tiếng Nam bộ. Dù là tiếng khu nào khi người đàn bà gọi người đàn ông cũng ngọt ngào ấm áp. Nhưng hình như tiếng con gái  Nam bộ ông thích hơn cả. Theo ông thì tiếng gái nam bộ nó có hồn, nó âu yếm làm sao khi đối diện với người đàn ông, nó làm cho đàn ông giảm bớt đi sự cục cằn thô lỗ và làm cho đàn ông rạo rực nồng nàn mỗi khi nghĩ về cái sự yêu thương.
Họ cưa chân ông được hai tuần thì phẫu lại dính càn. Thương binh nhẹ rút theo đơn vị còn những người cụt chân tay thì họ gửi lại dân quân du kích chăm nom. Ông Thuộc được đưa xuống hầm bí mật của dân và đây là chuỗi ngày ông được một cô du kích Long An chăm sóc.
Ông Thuộc dựa lưng vào cái mồ lạnh sau lưng, quệt cái đóm hút thuốc lào lên khúc chân giả bâng khuâng hồi ức chiến tranh. Nhớ đến cô du kích Long An ông lẩm bẩm. Đến vợ mình cũng chả chăm mình được như họ. Sao mà những người du kích Nam bộ họ khổ thế mà dũng cảm thế.  Chiến trang nó làm những người du kích gái không có lúc nào mà nhớ đến tuổi dậy thì của mình nữa. Bom với đạn với chết chóc luôn rình rập bên mình mà họ đối xử với bộ đội nhẹ nhàng hiền lành chả bù lúc đánh địch họ dũng cảm và quyết liệt chả kém đàn ông. Cũng may mà cái chân cụt của ông Thuộc đã gần liền sẹo địch mới càn đến và ông phải xuống hầm bí mật. Cô du kích gọi ông Thuộc là anh hai. Họ bảo cái giọng an ủi của gái trinh nó làm dịu cơn đau dễ lắm. Thuộc chỉ mong cô gái gọi thật nhiều. Cô gái vừa lo cái ăn thức uống, lo thay băng rồi lại đổ cứt đái cho Thuộc nữa. Thuộc cứ nhắm mắt không dám nhìn người con gái hầu hạ mình. Bàn tay như có điện của cô du kích làm Thuộc cứ rướn người lên mỗi khi thay băng. Quả thật Thuộc đã từng có vợ và hai con nên sự mẫn cảm và hình dung về người đàn bà mạnh mẽ. Đến lúc cái chân bị cụt của Thuộc khỏi rồi thì cũng hết đợt càn của địch. Có hôm nằm dưới hầm, cô du kích sờ sờ cái chân cụt của Thuộc mắt rơm rớm. Nay mai họ mần anh hai cái chưn giả anh hai đi đi lại lại như thường nha. Đôi mắt cô gái như hai đốm lửa nhỏ. Cô nói thật nhẹ và miệng thật tươi. Mà cái chưn này có chi ảnh hưởng tới sanh con đâu anh há? Cô ấy cười và gục người lên mặt Thuộc. Thuộc thì im lặng vòng tay ôm lưng cứ để cặp gò ngực rõ nở và mềm áp trên mặt mình và mớ tóc cô gái xoà lên hệt con gà mái. Cô gái ngẩng đầu lên, còn Thuộc thì lần bàn tay lên ngực cô gái. Cái mỏm chân cụt của Thuộc được cô gái xoa xoa ấm lên. Cái chân cụt thật vướng víu. Lúc ấy Thuộc thấy cái chân cụt của mình cũng rạo rực tê tê.

Phải hút hai điếu thuốc lào ông Thuộc mới đứng dậy. Ông lắp cái chân giả vào đứng nhìn cái bia ghi tên ông Chủ tịch xã mà ông đã từng có lúc ghét ông ta. Chợt ông nhớ đã có hồi ông chê cười ông chủ tịch xã là kẻ hủ hoá. Thế mà ngay cả khi ông được cô du kích chăm sóc, cô ấy là ân nhân của mình mà mình cũng còn hủ hoá nữa là. Rồi ông lẩm bẩm ta thông cảm cho nhau ông chủ tịch xã nhé. Đời người ta có biết bao nhiều điều xấu mà người khác không nhìn thấy đó thôi. Ông bước đi nhưng cái chân giả khoắng vào cái chân lành của ông. Thế là ông ngã quay lơ lần nữa.

***

Hết năm này qua năm khác ông Thuộc vẫn cậm kịch cái chân giả cũ kĩ trong khi mồ mả bây giờ người ta xây xanh xây đỏ khang trang gấp mười ngày xưa. Ai cũng khen nghĩa trang làng ngày càng hoành tráng gọn gàng sach đẹp. Ông Thuộc trồng hoa ở các ngôi mộ, ông xin tiền đổ bê tông các lối đi. Ông quét dọn khắp các mồ mả của bất kì ai không cần quan tâm họ hàng thân sơ. Cũng có lúc ông thấy buồn vì hàng năm xã xét lao động giỏi và cá nhân gương mẫu nhưng họ không nhớ tới ông. Mà cũng khó thật. Có tiêu chí nào để cấp bằng khen cho ông. Mà có cấp bằng khen cho ông con cái ông chắc gì nó cho ông treo lên. Trong khi người ta chường cái chức danh trên giấy khen bằng khen ít ra cũng là cán bộ này chiến sĩ nọ. Ai lâị ghi tên đồng chí Thuộc nghề nghiệp coi mồ mả.
Thôi thì đời là vậy. Ông đã già, ông không còn thù hằn với ai nhất là với người đã khuất. Theo ông thì người sống nên bình đẳng mồ mả của người đã chết. Sống đã kèn cựa nhau chết cũng đấu đá tranh nhau hơn cái mả thì ra thể thống gì? Làm nghề nào tinh thông nghề ấy. Ông thì chả được tự hào nổi danh gì cho cam. Chỉ được cái nghe tiếng khóc đám ma là ông biết khóc thật hay khóc giả. Nhìn cháu con ở xa về ra thắp hương cho cha mẹ là biết được họ hàng nhà nó có đoàn kết có ăn nên làm ra hay không? Có những người ở xa về quê mà ra thăm mộ cha mẹ nán lại tâm sự chuyện trò với ông thì ít lắm. Ông quý những câu chuyện và nhời hỏi thăm của người làng ở xa về. Ông từng biết trong làng có người thù hằn nhà khác đến mức đái vào mả bố nhà người ta. Ông đã từng tháo cái chân giả ném vào kẻ táng tận lương tâm như thế. Niềm vui của ông thật giản đơn và bé tí teo. Ông chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ người làng ông sạch sẽ và thân nhân của họ hài lòng. Nghề trông coi mồ mả giúp ông biết được ai có tình cảm thật ai là kẻ tình cảm giả. Trong đám ma ai khóc thật ai khóc giả ông thoáng nghe là biết. Nghe tiếng trống kèn ông biết đám thợ kèn có tình cảm với người đang được đưa đám kia không? Có những đám ma ông nghe tiếng kèn trống nhạt thếch.  Càng ngày ông Thuộc càng yếu. Tiếng cậm kịch chậm chạp nặng nề hơn. Tần suất chân giả đá vào chân thật nhiều hơn và có những lúc cái chân giả tương cả vào mồ mả người ta cũng nhiều. Đến lúc ấy thì ông Thuộc hay nghĩ về chân giả và chân thật. Chưa bao giờ ông thấy cái chân lành của ông đá vào cái chân giả. Cái chân giả hay mất phương hướng vô hồn chứ cái chân thật thì có hồn nên nó không mất phương hướng nó không đá vào chân giả
Ừ mà sao đời mình cứ cái giả và cái thật nó song hành với nhau. Nó cứ dựa vào nhau mà sống mới lạ. Một ngày cái chân thật của ông mà thiếu cái chân giả thì nó lại thấy nhớ, nó hoạt động kém hiệu quả và chính ông cũng lại thấy nhớ đến nó.
Ông nằm ngủ hay tháo cái chân giả để bên cạnh. Tỉnh dậy việc đầu tiên là ông quờ tay tìm cái chân giả. Ông Thuộc nhớ cái chân giả và nghĩ về nó còn nhiều hơn ông nghĩ về cái bên chân thật của mình.

Ông Thuộc quản trang chết rồi. Người làng kể lúc khâm liệm ông gia đình thực hiện theo lời dặn dò của ông là mang theo cho ông cái chân giả.