Người co giật từng hồi, da tái xanh, miệng đánh bò cạp khi có gió thổi qua, miệng sùi bọt mép, ánh mắt hoang dại,… một cảnh tượng thực sự ám ảnh ở ông Tư Cộc, người đang quằn quại trên chiếc chiếu rách tả tơi, cạnh cái cà ràng đã bao ngày lạnh lẽo và vách lá đầy bồ hóng… Ông biết mình sẽ chết nhưng có lẽ điều làm ông tiếc nuối nhất lúc này chính là vẫn chưa gặp lại thằng Tý, con trai ông, và trong cơn mê sảng đó, hình ảnh con mực cũng liên tục hiện về cụp đuôi đầy sợ sệt…
Ông lặng lẽ ra đi như chính quãng đời trầm lặng mà bao năm qua ông đã sống. Không ai biết ông chết từ lúc nào vì mấy năm nay ông có giao du với ai đâu, mà cũng chẳng có ai muốn kết thân với ông hết, chỉ khi có mùi hôi thối bất thường tràn vào những căn nhà dưới gió thì mới có người đi lục lọi các ngõ ngách để biết nguyên nhân. Và rồi họ tìm đến căn chòi xiêu vẹo nằm lặng lẽ giữa khu vườn hoang của ông Tư, nơi đó có một cái xác đang dần phân hủy, ruồi xanh bay vo ve.
“Ông Tư Cộc chết rồi bà con ơi!” một người tái mặt la lên trong hốt hoảng…
Ít ai biết rằng ông từng có một gia đình với một người vợ hiền, một đứa con trai kháu khỉnh và một giấc mơ đổi đời từ cây mía. Hồi mới lập gia đình, ông Tư tháo vát, nhưng tánh tình ương bướng, cố chấp, sẵn sàng cự cãi và hay quát mắng vợ con vô cớ. Tính ông nói chung là cộc lốc và gia trưởng nên người ta mới gọi ông là ông Tư Cộc. Thời điểm những năm 1990 của thế kỷ trước, ở miền Tây đâu đâu cũng thấy mía và các hoạt động khác liên quan đến loại cây này. Ông tin rằng cây mía sẽ là con đường thoát nghèo vì thực tế những người thân của ông cũng khấm khá lên từ đó. Gom góp hết gia tài bằng việc bán đi căn nhà kê bằng cây còng, vay mượn thêm bà con, ông sắm một chiếc ghe bầu đi mua mía. Ban đầu ông mua của bà con trong xóm rồi chở đi bán cho các lò đường. Những chuyến hàng đầu tiên có chút lợi nhuận, ông hứng chí, cười nhiều hơn và dĩ nhiên là không quên làm vài ly rượu để ăn mừng cùng bạn ghe.
Vợ ông là một người phụ nữ chân chất, chồng bảo sao nghe vậy. Sống cùng ông, bà ít khi nào dám nói gì, bà chỉ lũi thủi, lặng lẽ nấu cơm, giặt giũ và lo cho thằng Tý – đứa con trai 3 tuổi. Có lần bà lấy hết can đảm để hỏi ông: “Mình à! Vợ chồng mình đi ghe như thế này rồi thằng Tý sẽ học ở đâu? Câu hỏi ấy khiến ông Tư giật mình, nhưng vẫn cố tình gạt phăng đi: “Tới đó đi rồi tính, lo xa quá”. Nói xong, ông leo lên võng nằm ngủ để mặc người vợ với ánh mắt đăm chiêu, lặng lẽ nhìn đám lục bình trôi theo dòng nước… Bà Tư đến với ông nhờ mai mối, gia đình bà ở Châu Đốc, lúc nhỏ bà từng theo gia đình qua xứ Nam Vang đi bán cá vồ. Sau đó, cha mẹ của bà quay trở về Việt Nam bán cá vồ con, rày đây mai đó trên sông nước. Có thời điểm ghe neo đậu gần cả tháng trong xóm nhà ông Tư để bán cá vồ cho bà con. Dì út của ông thấy bà nhu mì, kim chỉ nên làm mai cho ông. Vậy là họ thành vợ chồng và thằng Tý cũng nhanh chóng ra đời sau đó. Tuy mới 3 tuổi, nhưng nó rất mến cha. Ông đi đâu nó cũng đòi theo, không có ông nó cũng không chịu ngủ, nhiều lúc khóc nhè vì bị ông la vì hay lấy đồ đạc bỏ vào lu nước. Ông Tư ít khi thể hiện tình cảm với vợ con, hài lòng lắm thì ông chỉ “ừ” một tiếng rồi lãng sang chuyện khác.
Trên chiếc ghe bầu rày đây mai đó, gia đình ông Tư còn có một thành viên “nhí” khác, đó là con mực. Chỉ là giống chó cỏ thông thường, được ông xin của người bạn để nuôi cho nó giữ ghe. Những ngày ông đi vô rẫy mía là nó cứ lẽo đẽo theo sau. Hễ ông nói chuyện với chủ mía thì nó nằm gần đó, mắt lim dim khi gió mát thổi qua. Có lần khi vào rẫy mía, ông bị con rắn hổ đất xông ra rượt chạy chói chết. Nghe tiếng chủ la thất thanh nó nhanh chân chạy lại và ngoặm cái đuôi con rắn quật mấy phát, con rắn văng vô bụi cây nổ gần đó rồi bò mất dạng. Từ ngày ấy, ông rất thương con mực vì nó đã cứu mạng ông. Những hôm ông đi nhậu chưa về, nó cứ nằm trước mũi ghe chờ, thấy ông loạng choạng cầm đuốc bước xuống chiếc đòn dài là nó kêu ư ứ, mừng rỡ rối rít. Có hôm say xỉn lọt xuống sông, nó liền sủa ỏm tỏi rồi nhảy ùm xuống sông bơi quanh chủ. Có người thấy con chó khôn quá hỏi mua nhưng ông nhất quyết không bán. Được một thời gian, con mực bắt đầu biết mê “cái”. Mỗi khi ghe đậu là nó nhanh chân phóng lên bờ đi kiếm “người yêu”. Ông Tư cũng không để ý, nhưng có một ngày nó đi và không trở lại nữa, ông đi tìm trong vô vọng. Tình cờ một hôm lên chợ, thằng Lực xóm trên nói cho ông biết, nó bị thằng Cu Đen bẫy và bán cho quán cầy Bảy Mập rồi. Ông tức điên, định đi kiếm để hỏi cho ra lẽ, nhưng chuyến hàng gấp quá, con nước lại rút nhanh nếu không đi sớm ông sẽ bể giao kèo, còn ghe bị kẹt lại trong kinh không ra được. Vậy là ông đành lui ghe nhưng lòng vẫn ấm ức và ghét cay ghét đắng mấy tên đi bẫy chó như thằng Cu Đen. Nếu gặp được nó, ông sẽ trấn nước cho chết hết.
Mới đó mà đã 2 năm, ông Tư đã dần quen với “đường đi nước bước”. Gia đình ông rong ruổi khắp Sóc Trăng, Cần Thơ, Trà Vinh để mua mía. Nói chung là cũng sống được nhưng cực khổ quá. Những ngày nắng, những ngày mưa đã làm da ông đen sạm, những chuyến thức khuya canh con nước để chở mía khiến mắt ông ngày thâm quầng và sâu hơn. Ông không nghĩ đi ghe lại vất vả như vậy, lòng có chút thất vọng, nhưng “lỡ rồi”, ông tự nhủ. Mọi chuyện bắt đầu thay đổi khi ông thấy người anh họ đầu tư làm lò đường nay đã có nhà cao, cửa rộng. Mỗi lần giao dịch với bạn hàng, trong đó có cả ông, thì xách cả giỏ tiền nặng trịch. Thấy cũng bằng tuổi mà sao mình còn lẹt đẹt quá và ông lại ấp ủ giấc mơ đổi đời như người anh họ. Cuối cùng thì thời cơ cũng đến. Trong một lần giao hàng xong và ngồi lai rai thì người anh đó có rủ rê hùn vốn vô lò đường rồi chia lời. Như buồn ngủ gặp chiếu manh, ông không suy nghĩ nhiều khi quyết định bán chiếc ghe bầu mà chẳng cần hỏi ý vợ con. Thế nhưng, số tiền ấy cũng không đủ, ông buộc phải mượn người quen thêm 2 cây vàng để hùn vốn. Công việc của ông là đứng coi cân mía và giữ kho. Tiền lời chia theo tỷ lệ mà ông đã góp vốn. Được ra dáng chủ cả, ông cũng lên mặt đôi chút. Lúc này ông cất nhà ở đậu kế bên lò đường, vợ ông vẫn ở nhà chăm con, khi nào rảnh thì ra phụ ông coi cân mía. Mấy tháng đầu tiên, lò đường vẫn chạy tốt, ông được chia tiền lời, cũng trả nợ được một ít. Nhưng chẳng được bao lâu thì lò đường gặp sự cố, máy móc hư liên tục, phải ngưng hoạt động để sửa chữa, mía chất đống không ép được dần bị hư hỏng, công nhân không có việc làm nên bỏ qua lò khác, trong khi số đường ép ra không đạt, giữ trong kho thì không có chỗ nên đành bán tháo để tạm xoay tiền. Cầm cự một thời gian thì người anh kia đổ bệnh qua đời, lò đường còn nợ bà con nông dân tiền mía nhiều quá nên buộc phải giải thể. Thế là ông Tư lâm vào cảnh “tay trắng”. Quá buồn chán nên ông ngày càng uống rượu nhiều hơn, lâu dần sinh nghiện. Ông thường về nhà trong cơn say xỉn, đập phá, chửi bới, trách ông trời bất công. Ông không còn muốn làm ăn gì cả. Khi say ông lại chửi bới, giờ lại sinh tính vũ phu, đánh vợ không cần lí do gì cả. Thằng Tý thấy ông thì sợ như cọp, thường là nó ra bờ chuối gần đó để trốn, còn không là núp sau lưng mẹ. Cám cảnh khổ sở cùng cực, vợ ông dắt con bỏ đi trong đêm mà không một lời từ biệt…
Tỉnh dậy sau cơn say, ông bàng hoàng đi tìm vợ con. Ông dò la khắp nơi nhưng gần như không ai biết họ đi đâu cả. Hỏi mãi cũng có người nói thấy bà và thằng Tý trên một chiếc ghe bán cá vồ của những lái buôn bên Nam Vang. Không lẽ họ đi sang Nam Vang thật vì bà Tư cũng có một vài người thân ở bên đó. Tự ái nổi lên, ông nghiến răng nói thầm: “Được rồi, tao sẽ sống một mình, không cần ai hết”.
Nói là làm, ông âm thầm rời xóm cũ, lang thang khắp nơi, tránh mặt người thân, bạn bè. Thấy mảnh đất bỏ hoang ở gần bãi bồi ven sông, không xa khu chợ vàm nổi tiếng có nhiều quán thịt chó mà trước đây ông hay ghé để mua mắm muối nên ông liều mạng đến cất cái chòi tạm để ở. Thấy ông tội nghiệp, cũng không ai nói hay làm khó dễ gì. Hàng ngày, ông đi bồi sình cho những hộ trồng mía kiếm miếng ăn. Nhưng công việc ấy cũng không kéo dài. Ông ngày càng yếu, lại nghiện rượu, bữa làm bữa nghỉ nên riết không ai thuê nữa và thế là ông sống trong túng quẫn… Sống cô độc trong căn chòi lá, cơn giận trong ông cũng dần tan biến, ông bỗng thấy nhớ vợ, nhớ thằng Tý quá, nhớ những buổi chiều đậu ghe dưới bến sông ăn cơm. Ông nhớ cái dáng lom khom, hiền hậu của bà lúc nấu cơm, nhớ cả món mắm kho chấm bông lục bình mà bà hay nấu để ông nhâm nhi vài ly cho giãn gân giãn cốt. Vậy mà nhiều lần ông nỡ đánh bà. Ông nhớ thằng Tý háo ăn, mặt mũi tèm lem sau mỗi lần “xước” mía, nhớ lúc nó chăm chú nhìn ông gỡ xương cá rồi đưa cho nó “ùm” một cái. Từ ngày về ở căn chòi này, có lần ông vô tình gặp được người quen, nói có gặp lại vợ ông và thằng Tý, họ bây giờ sống cũng ổn. Ông tự nhủ khi nào có đủ tiền sẽ lặn lội qua Nam Vang tìm vợ con tạ tội. Gia đình ông sẽ sum họp và làm lại từ đầu. Nhưng biết đến khi nào, dòng suy nghĩ của ông tắt lịm khi cơn thèm rượu bất ngờ ập đến.
Cuộc sống không tiền, không gạo, người ông lúc nào cũng cồn cào, thơ thẩn, ông thường ăn rau dại, chuối nấu để cầm hơi, lúc nào khỏe thì ra bờ sông mò hến, có khi đói quá ông chỉ uống đỡ ngụm nước mưa rồi ngủ đi lúc nào không hay. Tỉnh dậy sau những lần như vậy, ông tự hỏi làm gì để sống, bây giờ chẳng lẽ đi ăn trộm. Trước đây, nghe câu “bần cùng sinh đạo tặc” ông rất dị ứng. Nhưng trong hoàn cảnh này, có lẽ ông cũng không thể làm khác vì không có rượu ông như cái xác chết di động, cơn thèm rượu cứ thôi thúc ông làm một cái gì đó. Nhưng ông phải làm gì đây? Ý nghĩ đó cứ lẩn quẩn trong đầu. Bỗng “hú.….” tiếng chó gần đó vang lên làm ông giật mình. Chó, phải rồi, chó! Ông lẩm nhẩm trong miệng như vậy. Mấy bữa gần đây, lũ chó hoang cứ hay tới lui căn chòi của ông, thậm chí vô tận bên trong lục tung mọi thứ để kiếm ăn. Nhiều lần ông đã xua đuổi, lấy củi chọi thẳng tay nhưng chúng vẫn cứ thản nhiên như không, thậm chí còn thách thức khi cứ sủa lên ỏm tỏi. Được rồi, tao sẽ cho chúng mày vô quán nhậu hết. Thế là ông nghĩ đến chiếc bẫy chó. Nhưng khi ý nghĩ ấy vừa lóe lên ông lại từ bỏ ngay. Ông thấy mình hèn quá, không ngờ cũng có ngày mình làm cái nghề này sao. Ông đã căm ghét cái nghề mạt hạng này, mà nay thì… Ông thấy mình không đáng mặt đàn ông nữa, thấy xấu hổ với vợ con, với mọi người và với cả con mực. Vợ ông sẽ nghĩ gì, thằng Tý sẽ coi ông ra gì nếu biết ông đi bẫy chó, kể cả con mực cũng xem thường ông vì ông đã từng căm ghét thằng Cu Đen khi nó làm cái nghề này. Vậy là ông tạm gác lại ý định xấu xa của mình…
Nhưng được vài ngày cầm cự bằng mấy nải chuối, cơn thèm rượu lại khiến ông vật vã, cùng đường vậy là ông lại nghĩ đến bẫy chó. Ông nhẩm tính, chỉ cần một con chó là có thể giúp ông có tiền mua rượu uống cả tháng. Thôi kệ đi! Ông tự an ủi chính mình.
Để làm ra chiếc bẫy, ông đi xin dây thắng xe đạp cũ, loại dây thép nhỏ, mềm nhưng dai, được ông uốn thành một vòng thòng lọng, một đầu được buộc vào thanh tre già. Cách đặt bẫy đơn giản cũng như bẫy gà khi dây thòng lọng được gày một cái cò, khi con chó bước vào ăn mồi, cò sập, cây tre bật lên thì vòng dây sẽ siết lại quanh cổ, loại bẫy này khiến con chó không thể kêu la.
Ngày đầu tiên ông đặt bẫy ngay chính cái bếp của mình, và mồi là ít xương heo mà ông xin được từ quán hủ tiếu đầu đường. Không hiểu sao, dường như lũ chó như biết được ý đồ của ông mà chẳng con nào bén mảng đến. Ngồi trong kẹt đợi mãi, muỗi cắn cũng dám nhúc nhích, ông bắt đầu chán nản. Ngày đầu thất bại thảm hại, ông lại uống ít nước cầm hơi rồi cố đợi thêm ngày hôm sau. Chạng vạng tối, gió thổi qua vách lá rách phất phơ, một con chó hoang màu đen xuất hiện, gầy gò, mắt đỏ ngầu. “Trời ơi, con mực”, ông định hét lên nhưng kịp dừng lại. Lúc này con chó rón rén như đang dò xét. Một hồi sau, nó nhè nhẹ thò đầu qua thòng lọng rồi gặm lấy khúc xương. Khi đó, cò được kích hoạt, cái bẫy bật lên và thòng lọng nhanh chóng siết lấy cổ nó. Nó quay cuồng, vùng vẫy trong hoảng loạn, cố thoát ra, nhưng càng vùng vẫy, vòng dây càng siết chặt vào cổ. Chỉ chờ có thế, ông Tư lao ra, tay cầm khúc tầm vông nhưng cứ chần chừ vì không nỡ xuống tay. Thấy ông, con chó lại càng điên cuồng vùng vẫy. Sợ có người nghe thấy, ông choàng tỉnh và cố kết liễu thật nhanh nhưng đánh trật lất. Sau đó, ông cố hết sức để cọng dây siết chặt hơn, đang loay hoay thì bị con chó táp vào tay. Như một phản xạ tự nhiên, ông nhặt lại khúc cây và “bốp, bốp, bốp”, con chó dần nằm im bất động. Ông ngồi xuống, thở dốc, tay tháo dây, vòng thòng lọng đã ăn sâu vào cổ nó. Lúc này, máu tay ông chảy ra, thấm vào đất, ông chẳng mấy quan tâm, nhanh chóng cho con chó vào bao mang đi ngay trong đêm.
“Phi vụ” đầu tiên thành công, ông cũng không vội đặt bẫy thêm. Mỗi ngày, có một vài con chó lại lởn vởn quanh nhà. Ông ngồi đó, lặng lẽ uống rượu và lại thấy hình ảnh con mực hiện về, lần này ông thấy nó giãy giụa trong cái bao rồi sau đó nằm ngay đơ khi người ta đổ nước sôi lên người nó. Tiếng dao thớt lạch cạch, tiếng cười nói, nâng ly trong quán thịt chó cũng hiện ra trong đầu ông. Mắt ông bỗng cay xè… và ông lại nâng ly. Rượu say, ông lăn ra ngủ…
Một tháng trôi qua thật mau, vết thương trên tay vẫn sưng vù, chảy mủ nhưng ông chẳng thèm quan tâm. Bình rượu đã hết và “ma men” lại hối thúc, vậy là ông lại nghĩ đến chiếc bẫy. Nhưng hôm nay ông cảm thấy khác thường, người ê ẩm, ông bước ra ngoài rồi trở vào ngay vì lạnh quá dù mặt trời đã lên cao. Người ông nóng bừng, tay cầm lấy cái thau nước định rửa mặt thì lập tức buông ra vì quá lạnh. Người ông sốt run, ông định bụng chắc do già rồi, cái này cũng bình thường vì ông cũng từng bị sốt rét hồi trai trẻ. Một ngày, hai ngày, người ông ngày càng mệt hơn, gần như ông rơi vào trạng thái mê sảng. Ông nằm co quắp trên chiếc chiếu dưới góc nhà, ánh mắt hoang dại. Mồ hôi túa ra khắp mặt, từng giọt lăn dài trên làn da tái nhợt. Mỗi khi nghe tiếng động hay tiếng chó sủa, ông lại giật mình, gào lên. Cổ họng ông phát ra những tiếng rít khàn đặc, vừa đau đớn vừa tuyệt vọng. Ông mơ màng thấy vợ con về thăm, còn con mực thì quẫy đuôi tựa đầu vào chân ông. Ông ôm chầm lấy thằng Tý, nắm lấy tay vợ rồi xoa đầu con mực. Thì ra lâu nay họ vẫn ở đây, bên ông mà ông không hề hay biết. Ông kêu họ về ở chung, ông sẽ sắm lại chiếc ghe bầu và cả nhà sẽ đoàn tụ như xưa. Rồi trong cơn mê sảng, ông thấy vợ con cứ xa dần, xa dần và khuất dạng, ông cố chạy theo họ và thấy mình rơi từ chiếc ghe bầu xuống sông, thân thể bập bềnh trôi theo dòng nước…
Thế là ông ra đi, mắt vẫn mở trừng trừng. Không ai dựng bia. Không ai khóc. Ông qua đời không một lời trăn trối, không một cái ôm từ người thân. Người ta không dám đến gần, không dám chạm vào thân thể ông. Xác ông sau đó được hỏa thiêu. Ông ra đi trong cô độc, trong sự tủi hổ và nỗi xót xa. Giá như ông không hấp tấp, cố chấp, không sa đà vào rượu chè thì có lẽ chiếc ghe bầu của ông vẫn còn đó và chiếc bẫy chó là một trong những thứ mà ông ghét nhất trên cuộc đời này…/.
Bài viết liên quan: