Những mùa mủ lặng im – Tản văn của Lê Nguyễn Minh Khuê

Những ngày chớm đông này, tôi bước vào rừng cao su. Gió hun hút rít dài giữa những hàng cây tăm tắp; có tiếng chim đang lanh lảnh bỗng chốc im bặt, tắt ngấm giữa bạt ngàn. Cái thiên tư kì diệu của loài khiến chúng biết khi nào nên cất tiếng và khi nào phải giấu nhẹm cái nốt nhạc ấy, khóa thật chặt vào nơi cổ họng. Từng luồng khí ẩm run lên bần bật lạnh buốt lưng người vãn khách; ấy vậy mà, trong mỗi bước chân lại làm dấy lên sự thúc giục muốn thâm nhập sâu hơn, như thể trong cái tù mù kia, có gì đó đang đợi – một nỗi yên tĩnh khó gọi tên, một giấc mơ đứng thinh không vỡ.

Giữa những lối mòn tít tắp, tôi bất giác nhớ đến những câu chuyện ba lơn mà lũ trẻ mót mủ cuối mùa hay truyền tai nhau. Rằng bước chân vào rừng cao su nghe tiếng ai gọi tên thì không được đáp lại. Bởi tên là dây neo của linh hồn, một khi buột miệng trả lời, sợi dây ấy sẽ bị kẻ vô hình giật phăng, kéo tuột cái phần vía đến khi phần người cũng mất dạng. Có lẽ vì thế mà những cái tên mụ lần lượt ra đời: Tí, Đẹn, Sứt, Còi, Thị Cò,… – những cái tên lem luốc, dúm dó, méo xệch mà người mẹ, người bà choàng lên người đứa trẻ như một tấm áo khoác rách, hòng đánh lừa ma quỷ. Để rồi ngụ trong cái bóng ấy, đứa trẻ được chở che. Chúng lớn lên nhanh như kẻ trộm, lén lút rút từng ngụm sinh khí từ đất, từ gió, từ rừng. Có đứa chọn trả lại món nợ ấy bằng cách ăn đời ở kiếp với rừng cao su, với những mùa mủ ròng ròng năm tháng và thứ đất đỏ bời bời máu lệ. Có đứa lại thu trọn bóng dáng rừng trong đáy mắt rồi lang thang miết mải nơi góc bể chân trời, sống một cuộc đời Bô-hê-miêng vô thưởng vô phạt. Để rồi thi thoảng quay đầu lại vẫn nghe cái mùi hăng hắc ấy bám riết trên da thịt, chẳng thể nào dứt ra. Và thi thoảng trong cơn mộng mị, thấp thoáng trong dư ảnh chúng vẫn là thứ mủ cao su trắng ngần, trôi rỉ rả như ngân nga một điệu hát man dại:

“Cao su đi dễ khó về…

ai đi chớ đợi ai về chớ trông.

Trăng đong nửa mảnh đoạn trường

người đi gửi lại dặm đường bơ vơ.

Đất này xương trắng bao mùa,

lá chưa kịp úa, người xưa đã tàn.”

 

Tôi bất giác nhớ về cánh rừng chạy dọc theo triền đồi, sau giàn bầu giàn mướp thơm mùi nắng. Rừng lúc nào cũng mang một màu xanh, xanh rờn đôi mắt, xanh thỏa thuê miệng lưỡi, xanh nóng rẫy và mát the lồng ngực. Và dù có đi ra khỏi rừng, vẫn thiết tha quay lại mà tọng cho đầy cuống họng cái hớp xanh, ngụm xanh. Nhưng rừng cao su lại không thế. Nó mang lấy một hệ sinh thái của riêng mình. Màu của nó là thứ màu được hòa trộn và chắt ra từ muôn sầu nhân thế:  những cơn sốt rét rừng, những trũng mắt sâu hoắm, những cái bẫy hứa hẹn ngon ngọt và lòng dạ quay quắt của bọn thực dân, từng cái gập đầu tạ từ vì trót lỡ đạo… Tất cả đắp lên nhau, đặc quánh lại, trộn lẫn, tự triệt tiêu ánh sáng của nhau, để cuối cùng chỉ còn lại một gam xám nặng trịch và bải hoải– gam màu của những âu sầu miên viễn và nỗi u uất chung thân.

Cũng chính từ gam màu xám ấy, rừng cao su mang trong mình một nghịch lý thầm kín mà ít ai nhận ra: rễ cao su vốn nông và yếu. Có lẽ, tạo hóa ban tặng cho loài cây ấy một hình hài phản vệ trước những lỗ mãng của con người và tự nhiên. Chỉ cần một cơn bão đi qua, hàng loạt cây cao su cũng nương mình theo đổ sạp. Giữa hoang tàn, chúng nằm chồng lên nhau một cách trật tự. Không vụn vỡ ầm ào, không chống cự phản kháng. Vạn cây như một. Một thứ kỉ luật trong câm nín. Một cách sống mà vẻ đẹp nằm ở nét kìm nén ẩn nhẫn. Tổ tiên của chúng cũng đã gục xuống cách đây hàng ngàn năm trước, lấy phục tùng là tôn chỉ, nghi lễ là đầu hàng. Và giờ đây chúng cũng nghiễm nhiên kế thừa cái di sản ấy, không phải trong dáng hình những truyền nhân bất đắc dĩ, mà là những môn đồ thuần phục và lặng lẽ.

Tôi đưa tay chạm vào một thân cây, từng vết cứa dọc ngang làm thành đường dẫn để thứ mủ trắng ngà nối đuôi nhau rỉ rả. Cây càng lâu năm, những vết khắc càng chằng chịt: chúng xéo xọ đắp lên nhau, chúng tăm tắp như đường kim mũi chỉ, chúng toang hoác và hốc hác. Chúng có một ngôn ngữ của riêng mình. Cũng tựa như từng nếp nhăn trên gương mặt của bà mẹ miền Trung nghiệt ngằn là lời dẫn cho một kiếp người chìm nổi điêu linh. Tôi tự hỏi: liệu có một cơ chế kháng thương nào dành cho chúng. Liệu khi thời gian cứ trôi nổi vô tình và con người bỗng một lần chùng lòng để yên cho chúng, mớ thịt da xác xơ và bong tróc ấy có lành lại. Hay cũng có thể, ngay từ đầu, chúng đã được định là những chỗ trũng, một chỗ trũng chực chờ bàn tay của con người chạm vào, để nỗi đau lập tức được hợp thức hóa. Và chỉ từ độ ấy, danh tính chúng được sinh ra: một bản khắc của sự phục dịch, một khế ước bán mình cho thân phận cam chịu truyền kiếp. Soi mình vào chúng, ta biết rằng nỗi đau một khi đã được hợp thức hóa sẽ trở thành thói quen. Và chính khả năng chung sống với cái thói-quen-đau-đớn ấy mới là thứ khiến chúng ta tồn tại.

Ôi rừng cao su, thứ “vàng trắng” của cao nguyên, hồi hải mã của nơi đất đỏ hoang sơ và rộc rạc! Nơi cái mạch ngầm u tịch của đất được tôi luyện từ chí khí kiên tâm của những người phu như sắt như đồng; và màn đêm hư ảo của trời được thu liễm từ cái nhánh đen bồ kết của những người con gái đẹp như thơ như mộng. Nơi ẩn mình trong những vẻ đẹp toàn bích là tiếng thổn thức về một thiên sử bời bời nắng lửa và huyết lệ. Giây phút bước ra khỏi rừng, tôi có lẽ cũng đã để lại sau lưng một tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi không ngoảnh lại, sợ bắt gặp ánh mắt của người phu trai tráng đã gửi xuân thì của họ vào từng thớ đất, từng đường gân gỗ mục. Sợ nghe thấy tiếng những mùa gặt cũ gọi mình bằng giọng khản đặc của nắng gió, bằng đôi bàn tay gầy sọp và vàng vọt nước da.

Nhưng tôi biết, rằng khi áp tai vào những thân gỗ mát lạnh, ta cũng nghe thấy những lời nguyện xanh của gió sớm mưa chiều đang âm thầm réo rắt, và tiếng kinh cầu ai thỉnh thắt thẻo sớm hôm. Mặc cho một dặm dài lịch sử với biết bao toan tính bất thành và sự thù địch chính trị ngày càng mưng mủ, những cánh rừng cao su vẫn sẽ ở đây, như giếng thiêng ngàn năm vững chãi và chuông đồng vọng giấc ngân nga. Thứ mủ ấy sẽ vẫn âm ỉ chảy để tiếp tục nuôi dưỡng từng mái nhà nhỏ nép dưới triền đồi, chở che những phận người chồn chân mỏi gót bên giọt mủ đêm khuya, chắt chiu bữa cơm với khói lam chiều yên lành như mộng và ru hời những giấc mơ đỏ hỏn trong đôi mắt trẻ thơ. Nó cho đời sợi vải dệt nên chiếc áo tinh khôi, cho thành phố đôi dép mòn dấu bụi đường, cho những chuyến tàu bon bon trên sắt thép, và cả những cánh diều tuổi nhỏ biết tung bay trong hoàng hôn đỏ rạng. Nó vừa là âm vừa là dương; vừa hư vô vừa vững chãi, vừa kiệt quệ vừa phong nhiêu, vừa liên miên âm ỉ lại thương sao cho đầy. Sự tồn tại nhị nguyên của nó đã khiến bước chân những kẻ vãn khách không chỉ vương mùi ngai ngái của nhựa trắng, mà còn chùng lại vì một nỗi niềm chẳng thể đặt tên.

Có ai hứng lấy một vệt nắng cuối ngày trong ngàn tia hoàng hôn rơi rụng, để thắp lên ánh đuốc cho con đường mịt mù bụi đỏ nơi đây.

Có ai giữ lại một làn gió trong ngàn cơn thổi vụt, để hong khô tiếng nấc còn bảng lảng chốn này.

Có ai nhặt lấy một tiếng chim trong vạn tiếng côn trùng râm ran, để đơm lên chút sáng tươi cho những hồn thiêng đất đỏ.

Là rừng mà không là rừng, ơi cao su, hỡi cao su…

Đánh giá bài viết 1 Star (18 lượt bình chọn)
Loading...