Trung tuần tháng 8-2024, tôi nhận được điện thoại của ông Hồ Duy Thiện, nguyên Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình: “Ngày 22 tháng 8 này, xã Thạch Hóa sẽ tổ chức lễ công bố Quyết định công nhận xã Nông thôn mới và đón Bằng công nhận cây gạo cổ thụ ở thôn 3 Thiết Sơn là Cây Di sản Việt Nam. Cháu thu xếp về dự nhé!”.
Từ ngày nghỉ hưu, cựu Chủ tịch UBND huyện Hồ Duy Thiện được bầu làm Chủ tịch Hội Di sản văn hóa huyện Tuyên Hóa. Ông là người tích cực sốt sắng trong việc sưu tầm, điều tra… rồi mời các chuyên gia về địa phương khảo sát, lập hồ sơ khoa học đệ trình các cấp có thẩm quyền, để cuối năm 2023, cây gạo thôn 3 Thiết Sơn được công nhân là Cây di sản Việt Nam. Tính đến nay, cây gạo làng tôi vẫn là Cây di sản Việt Nam đầu tiên và duy nhất của tỉnh Quảng Bình trước đây, kể cả hiện nay là tỉnh mới Quảng Trị. Khỏi phải nói tâm trạng phấn chấn của ông Hồ Duy Thiện khi thông báo với tôi những thông tin trên đây. Còn tôi, hơn cả niềm vui sướng là trào dâng một cảm giác rưng rưng thổn thức. Chợt hiện ra trong tâm trí tôi cây gạo thâm nghiêm cổ kính, sừng sững một góc trời, như mảnh hồn làng soi gương nhật nguyệt, như chứng nhân những thăng trầm dâu bể của ngôi làng thân thương đến tội nghiệp bao đời…
Thiết Sơn là ngôi làng nhỏ bên bờ sông Gianh, nơi chôn rau cắt rốn của tôi. Ngày tôi còn bé tí, đã thấy cây gạo đứng ở đó. Sinh thời, ông bà tôi cũng nói từ thuở bé, các cụ đã thấy cây gạo như thế, thân cây cao lớn thẳng đứng, dễ chừng đến dăm chục thước ta. Từ đầu làng nhìn lên, cuối làng trông xuống, mùa nào cũng đều thấy rõ cây gạo, khi cành lá xanh tươi, khi lập lòe muôn vàn búp lửa, khi khẳng khiu trơ trụi trong giá rét phong ba. Gốc gạo to lắm, sần sùi những u những bướu đủ hình thù kỳ dị. Nghe nói hồi làm máng Cây Gạo, ngót chục thanh niên của Đội thủy lợi dang tay nối vòng tròn mới ôm hết gốc cây…
“Máng Cây Gạo” là cái tên mới có khoảng sáu chục năm nay, từ khi Hợp tác xã làm cái máng gỗ dài hơn ba chục thước bắc qua khe Môn, đi ngang qua cây gạo, dẫn nước về cho mấy cánh đồng Trọt Cạn, Ma Hăng, Đá Lô, Lối Sỏi… Đến thời kỳ Đổi mới, cái máng gỗ mục nát được thay bằng bê tông vững chãi, nhưng vẫn mang tên là “máng Cây Gạo”. Mới đây, trong quá trình điền giã khảo sát để thẩm định hồ sơ Cây di sản Việt Nam, các nhà khoa học ước tính cây gạo làng tôi khoảng 300 tuổi, nhưng các bậc cao niên trong làng thì cho rằng ít nhất cây gạo phải tầm 400 tuổi. Theo gia phả các dòng họ, thì làng tôi được hình thành cách nay chừng 400 năm. Khi những cư dân từ vùng Hạ bạn ngược sông Gianh lên thượng nguồn khai sơn phá thạch, lập ấp dựng làng, chắc chắn đã có cây gạo đứng dưới chân ngọn núi đá vôi sừng sững như tấm bình phong khổng lồ chắn che một vùng bình địa, nên ngọn núi ấy mới được gọi là “lèn Cây Gạo”.
Tuổi thơ tôi có biết bao kỷ niệm gắn bó với cây gạo xù xì già cỗi, trơ trọi cuối cánh đồng cắt cỏ chăn trâu, mò cua bắt ốc. Cạnh gốc gạo có ngôi miếu Mệ Sơn phong rêu hoang vắng, lâu lâu mới có vài que hương lay lắt của ai đó phát tâm lén lút, bởi hồi đó đang có phong trào bài trừ các hoạt động mê tín dị đoan. Cây gạo, ngôi miếu là cả một thế giới huyền bí với những giai thoại “thần cây đa, ma cây gạo” mà người lớn thường kể để dọa đám trẻ trâu hay leo trèo nghịch ngợm. Chả cứ trẻ con, mà người lớn cũng ít ai ban đêm dám một mình băng đồng lội suối đi qua gốc gạo hoang vu. Chỉ có hồi tàu bay Mỹ leo thang bắn phá đoạn đường sắt phía Tây lèn Cây Gạo, thì ban đêm vùng miếu Mệ Sơn và cây gạo mới rậm rịch tiếng người. Ấy là các cô chú của đơn vị Thanh niên xung phong toàn người Khu Ba, về đóng quân ở làng tôi để bảo vệ đoạn đường sắt kể trên. Ban ngày, các cô chú học văn hóa và tập văn nghệ, ban đêm đơn vị chia thành 2 ca đi san lấp hố bom, gốc cây gạo trở thành điểm tập kết giao ca. Nhiều hôm, nơi đây thành điểm tập trung cấp cứu thương binh và khâm liệm Liệt sĩ…
Tôi tốt nghiệp phổ thông khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc, nhưng chưa được bao lâu, súng lại nổ ở 2 đầu đất nước. Mùa hoa gạo năm ấy tôi lên đường nhập ngũ, gửi lại quê hương bài thơ có bóng hình cây gạo thân thương và lời hẹn trở về xây dựng làng quê giàu đẹp, nhiều thóc gạo. Ngày ấy, ước mơ giản dị thế thôi:
Chào nhé những năm tháng chưa xa
Hoa gạo nở trên đồng trưa nắng cháy
Nước khe Môn ngàn năm cứ chảy
Thờ ơ…
Cây gạo già trầm tư
Thân gầy guộc, chẳng làm ra lúa gạo
Đồng Trọt Cạn, Ma Hăng
Ruộng Đá Lô, Lối Sỏi
Những cái tên cằn cỗi, khô khan…
Đời chiến chinh đưa tôi đến nhiều miền quê đất nước. Mới hay, cây Pơ-lang trên đại ngàn Tây Nguyên và cây Mộc miên dọc biên thùy phía Bắc, cũng chính là cây gạo quê mình… Hoa Pơ-lang trên cao nguyên là linh hồn của những áng sử thi trữ tình và bi tráng, tượng trưng cho tầm hồn phóng khoáng và tình nghĩa thủy chung của đồng bào các dân tộc Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông… Cây Mộc miên dọc biên thùy phía Bắc là những cột mốc kiên cường trấn ải, màu hoa là máu đào của biết bao thế hệ nghĩa binh đã đổ xuống cho Tổ quốc trường sinh. Còn cây gạo quê tôi, giản dị và mộc mạc như cái tên của nó, là khát vọng no ấm truyền đời của ngôi làng như bao ngôi làng miền Trung nắng mưa khắc nghiệt…
Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, làng tôi là cửa ngõ của Chiến khu Đồng Lào – “An toàn khu” của tỉnh Quảng Bình. Trường Trung học kháng chiến của tỉnh thành lập ở hang Hung Bù. Nhiều tướng lĩnh và nhà khoa học sau này, từng là cựu học sinh ở đây. Đối diện hang Hung Bù, bên kia sông là xóm Niệt, có Xưởng quân giới Trần Táo của Liên khu Bốn, nay vẫn còn dấu tích. Phía trên làng tôi là làng Còi, nơi ra đời Chi đội vũ trang Lê Trực, là đơn vị bộ đội chủ lực đầu tiên của tỉnh Quảng Bình, sau này phát triển thành Trung đoàn 18 thuộc Đại đoàn Bình Trị Thiên, tức Sư đoàn 325 nổi tiếng. Phía dưới làng tôi có bến đò chợ Gát, nằm dưới chân lèn Tiên Giới, thực sự là hiểm địa chặn ca-nô địch từ Hạ bạn nống lên. Đây là nơi ra đời bài hát Sơn nữ ca đi cùng năm tháng và là bối cảnh của tiểu thuyết Mùa hoa dẻ diễm tình từng bị cấm đoán. Sinh thời nhạc sĩ Trần Hoàn và nhà văn Văn Linh, tôi đã được nghe chính các ông xác nhận điều này…
Rồi những năm tháng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, làng tôi trở thành trạm dừng chân của bộ đội “đi Bê”, hết năm nay đến năm khác. Những hang Chùa, hang Diêm, hang Cá, hang Mụ Lại… trở thành những kho hậu cần, kho quân khí… của bộ đội và lớp học của trẻ em. Mới đây, trong quá trình khảo sát thực địa để thẩm định hồ sơ Cây di sản Việt Nam, các nhà khoa học đã phát hiện trong hang Chùa những dấu tích cổ nhân và cổ sinh hóa thạch, cho thấy người tiền sử ở đã xuất hiện ở vùng đất này. Đặc biệt gần đây, lèn Cây Gạo đã xuất hiện trở lại đàn Voọc gáy trắng, tên khoa học là Trachypithecus hatinhensis, là một trong những loài linh trưởng được xếp hạng cực kỳ nguy cấp trong Sách đỏ Việt Nam, cần được ưu tiên bảo tồn. Theo các chuyên gia sinh học, thì quần thể Voọc gáy trắng quý hiếm sinh tồn và phát triển ở vùng núi đá, bên cạnh cộng đồng dân cư, như ở làng tôi là vô cùng độc đáo. Hiện tại, làng tôi nằm lọt trong Khu bảo tồn Voọc gáy trắng Quốc gia, rộng hơn 500 héc-ta thuộc 4 xã thượng nguồn sông Gianh của Chiến khu Đồng Lào thời kháng chiến chống Pháp.
Sự trở về của đàn linh trưởng quý hiếm, khiến dãy lèn Cây Gạo nhộn nhịp hẳn lên. Cây gạo dưới chân lèn trở thành điểm “giao lưu” giữa dân làng với đàn Voọc gáy trắng. Hình như chúng cũng biết thân phận được cưng chiều trong thời đại văn minh, nên ngày càng tỏ ra dạn dĩ, thân thiện với con người. Những hôm đẹp trời, chúng túa ra đùa nghịch trên các cành cây gạo, “tạo dáng” cho những tay máy nghiệp dư và chuyện nghiệp gần xa tìm về làng tôi ngày mỗi đông hơn. Thi thoảng còn có cả những ông Tây bà đầm đi ô tô về làng tôi, ngắm nghía đàn Voọc gáy trắng, chụp ảnh, ghi chép rồi xì xồ gật gù với nhau ra điều đắc ý lắm.
Đàn Voọc gáy trắng và Cây gạo Di sản Việt Nam còn “mang” về cho làng tôi những dự án tiền khả thi của các doanh nghiệp lữ hành trong và ngoài tỉnh, nhằm phát huy giá trị các di tích văn hóa, lịch sử kháng chiến và hệ sinh thái của một miền quê sông núi hữu tình. Và cây gạo làng tôi chắc chắn sẽ là một sản phẩm du lịch hấp dẫn, độc đáo, sẽ góp phần làm ra “lúa gạo” cho dân làng tôi trong tương lai “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” đang mỗi ngày hiện hữu…
Bùi Minh
Đánh giá bài viết
Bài viết liên quan: