Xanh thẳm đại ngàn – Tản văn của Hoàng Ngọc Thanh

Miên man núi. Trập trùng mây. Cây nối cây, rừng nối rừng, loang ra một màu xanh ngắt. Màu xanh mỗi lúc một dày lên, hút mắt. Không chỉ có thông mà còn nhiều loài cây khác chen chúc nhau, nép vào nhau vươn mình đón gió, trải ra chiếc thảm xanh dài rộng đến vô cùng.

Càng vào sâu khu sinh quyển Núi Bà – Bidoup của núi rừng Tây Nguyên, không khí càng loãng dần. Lạnh. Cái lạnh phả ra từ vòm miệng vô hình của núi rừng, tinh khiết thanh sạch, ngấm vào người như một sự thanh tẩy. Mưa lất phất, phủ một màu trắng đục lên núi đồi trùng điệp. Cái lạnh được cơ hội tăng thêm phần buốt giá. Đi thêm một quãng, mưa ngớt hạt nhường chỗ cho ánh nắng lấp lóa sau những đụn mây xám bạc. Cây cối vẫn ướt sũng, bầu trời chín mọng hơi nước, sương phảng phất khắp nơi, đậu lên nhành cây ngọn cỏ, vươn tay níu mây níu trời. Rừng chuyển sang màu khói sương huyền ảo. Ôi chao! Đẹp! Tôi chỉ biết thốt lên như thế với cảnh tượng trước mặt, cảm giác như đang lạc vào một không gian nào khác. Làn sương khói ấy cứ là đà qua thung qua suối, song hành cùng tôi suốt chặng đường rừng.

Xe chạy qua nhiều trạm kiểm lâm, Cổng Trời, Lán Tranh, qua thêm nhiều căn nhà gỗ dựng tạm của những người bảo vệ rừng thì thấy xa xa vài nếp nhà như những chấm mờ thấp thoáng giữa màu xanh đại ngàn, giữa tầng tầng mây phủ. Tôi đưa điện thoại lên, zoom hết cỡ cũng chỉ chụp được vài nét mờ ảo, chợt nhớ từng đọc đâu đó về những tổ chim chênh vênh bên sườn núi, quả đúng với khung cảnh trước mắt.

Lọt thỏm giữa màu xanh bất tận ấy mới cảm nhận hết sự bé nhỏ của con người trước thiên nhiên hoang dã, giữa điệp trùng núi non. Chợt bật ra câu hỏi, tự bao đời nay con người đã ứng xử thế nào với rừng, những cá thể hữu hạn đã làm gì với đại ngàn mênh mang!

Tôi hình dung về những cánh rừng đã đi qua, về những tộc người ẩn náu giữa rừng thiêng núi thẳm. Họ sinh ra từ rừng, sống dựa vào rừng, được rừng chở che nuôi dưỡng. Họ ở đó từ khi ánh sáng văn minh chưa chiếu rọi. Họ ngủ trong hang, kiếm ăn từ những sản vật của rừng, bẫy thú, bắt cá, hái lượm, uống nước từ dòng suối róc rách chảy giữa đại ngàn. Ngọn lửa đầu tiên của nhân loại đến từ hòn đá của rừng, tấm áo đầu tiên con người mặc từ những cây lá rừng cho. Ngày nay con người có mặt trên khắp năm châu bốn bể, trên trăm miền quê hương đều có nguồn gốc từ rừng mà ra.

Cuộc sống có đổi thay, thì rừng vẫn là nơi nương náu là không gian sinh tồn của những tộc người sống dưới tán rừng. Với họ rừng chính là linh hồn là máu thịt. Và ngược lại, họ xem mình là một phần, là một giống loài của rừng. Họ kính ngưỡng rừng, tôn trọng rừng, tìm cách đối thoại, tìm cách hòa hợp với rừng.

Người ta thường nói đến tập tục du canh du cư đốt rừng làm rẫy của đồng bào, nhưng họ chỉ đốt những khoảng rừng nghèo, rừng thưa, vừa đủ cho cuộc sinh nhai của dòng tộc, cộng đồng. Họ không phá rừng đầu nguồn, bởi đó là nơi Yàng Bri (Thần Rừng) trú ngụ, là chốn linh thiêng không thể chạm đến. Muốn có cây lớn làm nhà cho người sống, làm quan tài cho người chết, họ phải làm lễ cúng để xin. Đó là tín ngưỡng văn hóa, cũng là lối ứng xử minh triết để bảo tồn rừng. Nếu vi phạm sẽ bị phạt, nhẹ thì với cá nhân gia đình, nặng thì cả buôn làng đều gánh tai ương dịch họa.

Họ chỉ lấy từ rừng những gì mình cần, vừa đủ, không phí phạm, không lấy để tích lũy. Tôi đã được trải nghiệm về cách bán buôn của người đồng bào, họ chỉ bán đúng cái giá họ cho là hợp lý, bán để đổi lấy những thứ mình cần, không lấy thêm, không bán đắt, vì sản vật từ rừng là của chung. Họ sống cuộc đời phóng khoáng, chia sẻ những gì kiếm được, không giữ cho mình thứ gì. Với những tộc người sống ở đại ngàn Tây Nguyên thì chết là hết, là tiêu tan, là mất hoàn toàn, không còn thể xác không còn hồn phách. Sau nghi lễ Pơthi, Mớtboxat (Lễ Bỏ Mả) thì người sống và người chết không còn vương vấn lưu luyến gì nhau, người chết ung dung trở về với núi thẳm rừng thiêng, với mưa nguồn gió núi để chuẩn bị cuộc tái sinh. Có lẽ chính vì quan niệm ấy, mà cuộc sống của họ thật giản đơn, nhẹ nhàng.

Người Cơ Ho có câu hát:

Sông suối là của chung

Cá dưới suối ai xúc cũng được

Bắt ếch con còn chừa ếch mẹ

Chặt cây tre phải chừa cây măng

Ðốt tổ ong phải chừa ong chúa

Bẫy cá bằng thuốc sẽ làm suối nghèo

Luật tục người Mạ cũng phân định rõ về rừng: “Brê krong, cau dồs. Brê Yàng, cau dồs. Brê rơlau, ờ dồs…” (Rừng thiêng, bị phạt. Rừng thần, bị phạt. Rừng thường, cứ việc…).

Rừng thiêng liêng với những đứa con của rừng nhưng lại là nguồn lợi vô tận của những kẻ tham lam. Tôi từng chứng kiến đôi mắt đau đáu của người đồng bào nhìn cánh rừng gắn bó với mình bị tàn phá. Họ chỉ biết khấn cầu thần linh bớt cơn thịnh nộ, bớt giáng tội cho những con người tự xưng là mang ánh sáng văn minh để khai đường mở lối. Họ đau như thể da thịt của mình bị xẻo mỗi khi cây rừng gục xuống, ngơ ngác như thể đánh mất linh hồn khi khoảng rừng xanh biến thành đồi trơ núi trọc. Họ bất lực trước lòng tham của đồng loại – mà lại không giống họ – những người xem rừng là công cụ là lợi ích, những người đến với rừng vì mưu cầu vì lòng tham, không hiểu rằng rừng cũng có linh hồn có cảm xúc, biết hờn giận buồn vui, biết sẻ chia an ủi. Những con người ấy đi qua và để lại những vết thương nham nhở trên cơ thể núi rừng.

Tôi đã nhìn thấy những đồi núi trọc, những trận lũ kinh hoàng mà mỗi năm đều thiết lập kỷ lục mới, những vụ sạt lở vùi lấp bao nhân mạng, như cơn thịnh nộ của núi rừng, như lời cảnh tỉnh của thiên nhiên. Tôi cũng nhìn thấy những đồi thông xanh mướt nơi tôi đang sống bị đốn hạ, thay bằng công viên ghế đá, nhà lồng, dự án. Những điều đó đã khiến tôi từng nghĩ về rừng như một hoài niệm, một niềm nhớ, một nỗi luyến tiếc khôn nguôi…

Thế nhưng khi đến với miền rừng này, niềm tin trong tôi trỗi dậy, thật mãnh liệt, về một đại ngàn thẳm xanh, về một cuộc sống bình yên ở chốn núi rừng. Giữa lõi rừng già, buôn Đưng K’Nớ của người Cơ Ho hiện ra trước mắt. Trẻ con chạy nhảy nô đùa, bò heo gà vịt nhởn nhơ qua lại, ung dung như chốn không người. Vài chú heo tộc lắc mông ủn ỉn sang đường mặc kệ những chiếc máy kéo xình xịch lên xuống dốc.

Khi tôi vừa đến buôn trời lại đổ mưa, lần này thì nặng hạt. Tôi ghé vào quán nhỏ trú. Quán khá đơn sơ nhưng bù lại có tầm nhìn đẹp, dãy bàn ghế trông ra cánh rừng mênh mông trước mặt đã kín chỗ, đàn ông đàn bà, người lớn trẻ con đủ cả, đều là người của làng. Thì ra sống giữa núi rừng con người vẫn thèm rừng, vẫn muốn ngắm rừng cho no đôi mắt.

Trước khi vào Đưng K’Nớ tôi có tìm hiểu thì được biết, mỗi hộ gia đình của buôn đều là một lá chắn bảo vệ rừng. Không chỉ ở đây mà rất nhiều nơi làm như thế để giữ màu xanh đại ngàn. Bởi không ai yêu rừng bằng chính đứa con của rừng, không ai giữ rừng tốt hơn người bản xứ. Giữ rừng xuất phát từ tình yêu sâu thẳm trong linh hồn, trong máu thịt. Giữ rừng là nhiệm vụ. Và rừng cho lại nguồn thu nhập.

Tôi vào thăm ngôi nhà ba tầng bề thế với vài chiếc ô tô đậu ngoài sân của anh Ha Húy, một người con của buôn. Độ mười lăm năm trước, khi vừa xây xong, đây là căn nhà to nhất buôn. Đến giờ, có thêm nhiều nhà to như thế mọc lên. Ha Húy kể anh làm nhiều việc, dạy học, thời gian rảnh thì làm rẫy, làm nương, giữ rừng. “Bây giờ không ai chặt phá cây rừng đâu, ai cũng quý rừng, rừng là nguồn thu nhập của mọi người mà.” Dọc con đường bê tông dẫn vào buôn, không còn cảnh nhà sàn xập xệ, thay vào đó là nhà tường khang trang xen lẫn vài nếp nhà gỗ nhuốm màu hoài niệm. Trước nhà dựng vài chiếc xe máy, tôi còn nhìn thấy chiếc ô tô nằm dưới một căn nhà sàn, bất giác mỉm cười, cuộc sống mới ở buôn làng chính là đây.

Lại nhớ những cánh rừng mà tôi có dịp đi qua, Nam Cát Tiên, Bù Gia Mập, Côn Đảo, Núi Chúa, Sơn Trà, Phong Nha – Kẻ Bàng… với những hoạt động trồng rừng, những tour du lịch sinh thái, dã ngoại, đạp xe, trekking, ngắm cụ cây ngàn năm tuổi, những buổi ngủ giữa rừng để hít thở làn gió trong trẻo của đại ngàn, sáng sớm bị đánh thức bởi tiếng chim líu ríu, nghe tiếng hú vang vọng của những chú vượn má vàng… Những lần đi vỏ lãi len lỏi trên kênh rạch xanh ngát bèo hoa ở những cánh rừng tràm mênh mông miền sông nước Tây Nam Bộ. Những lúc đứng trên tháp canh nhô cao giữa rừng dõi mắt trông về bốn hướng, ngắm màu xanh hun hút đến tận chân trời, ngắm chim cò tự do bay lượn…

Qua đó tôi nhìn thấy một tâm thức chuyển dịch từ rừng. Rừng không còn là nơi để tận thu cây cối, mà giữ rừng để mang lại nguồn thu từ nhiều hoạt động khác nhau. Từ chỗ kính ngưỡng, sợ hãi rừng trở nên gần gũi thân thương, từ chỗ xem rừng là nơi khai thác thành nơi bảo vệ sự sống cho cộng đồng, tạo ra sinh kế cho buôn làng, người dân. Đời sống thay đổi, nhận thức thay đổi, con người cũng thay đổi phương thức để hòa hợp, để người và rừng cùng nhau sinh tồn, bảo vệ lẫn nhau.

Cây nối cây, rừng nối rừng, màu xanh lại nối liền giữa những cánh rừng miên viễn…

Hoàng Ngọc Thanh

Đánh giá bài viết 1 Star (4 lượt bình chọn)
Loading...