Truyện ngắn dự thi – Mùi quít chín

Xe vào đến ngõ, Duyên nhìn thấy mẹ  đang ngồi  trò chuyện với o Liên trên băng ghế đá đặt trước hiên nhà. Trong ba đứa cháu gái, Duyên không được o thương bằng hai chị Dung và Di. O thường hay bắt khoan bắt nhặt với mẹ Duyên về từng lời ăn tiếng nói của đứa cháu gái út. Vì thế  trông thấy o từ xa, Duyên đã xuống xe, cất lời chào lễ phép:

  • Dạ thưa o mới qua. Dạ thưa o con đi học mới về. Dạ mẹ, bé đi học mới về.

Duyên dắt chiếc xe đạp điện vào dựng ở hông nhà,  định đi vòng ra cửa sau. Thì tiếng o Liên lại vang lên gắt gỏng:

  • Cái con tê, răng mi cứ thấy tao qua là lủi như chuột chũi rứa?

Mẹ lên tiếng đỡ lời cho Duyên:

  • Dạ chắc con bé ra vườn đó chị. Duyên ơi, con lựa mấy quả quýt  chín,  hái đem vào đây. Một chập gửi o mang về ăn cho vui, con nghe.
  • Dạ mẹ.

Duyên thở phào nhẹ nhõm. Cất cặp, cầm chiếc túi ni lông và cây kéo, Duyên đi  ra sau vườn. Vườn quýt của ba Duyên trồng đã sáu năm, đất phù sa bãi bồi con sông Bồ và bàn tay cần mẫn chăm sóc của người nên năm nay đến mùa, vườn lại trĩu quả, những quả quýt vàng óng, da căng mọng , từng nhánh cong oằn trái la đà trước mặt Duyên, hương quýt  the the, ngòn ngọt, thơm thơm. Đi giữa vườn thơm,  Duyên lại càng nhớ đến ba. Năm Duyên học lớp bốn, ba Duyên đã phá biền ngò, chở đất ruộng ngoài cồn Săm về bồi thêm, trồng giống quýt nổi tiếng – quýt Hương Cần. Duyên nhớ  một lần,  Duyên theo ba ra vườn. Lúc ấy,  những cây quýt non như những tháp cây xanh, lá mướt mượt,  những giọt sương còn đọng lại óng ánh trong nắng mai. Duyên cùng ba bón phân bò hoai mục vào từng gốc cây quýt. Ba bảo với Duyên: “Vườn quýt ni ba chuẩn bị cho bé vào  đại học ”. Nhưng Duyên chưa lên cấp 3, ba đã trở bệnh, bệnh lao phổi tái phát. Năm ấy, cũng là mùa đầu tiên quýt ra hoa. Từ bệnh viện về, ba nằm liệt trên giường, từng cơn ho như xé ruột gan. Nghe mùi thơm của  hoa quýt quyện trong gió đưa vào phòng, ba ngồi bật dậy nhìn ra cửa sổ, rồi bảo mẹ dìu ra thăm vườn. Trong tiết lập xuân, mưa phùn bay lất phất,  hoa quýt bung nở một màu trắng nuốt, những cánh hoa  nhỏ xinh nằm chi chít trên cành lá xanh, soi mình dưới ánh nắng ban mai, tỏa hương thơm dìu dịu. Mùi  thơm trinh nguyên của hoa dường như đã thanh lọc chất độc trong buồng phổi, mấy hôm sau, ba đi lại được, bớt ho, nhưng người vẫn xanh xao. Thấy ba ngày nào cũng đòi một mình đi dạo thăm vườn, mẹ khuyên ba phải nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Ba cười nói  với mẹ: “Anh khỏe rồi, nhất định anh sẽ tự tay hái quả quýt chín bói đầu tiên. Anh sẽ cùng em thưởng thức quýt tiến vua, xem nó ngọt thanh thao như thế nào.” Quýt chưa chín, ba đã ra đi. Năm ngoái cúng giáp năm và năm nay mãn tang ba, trên bàn thờ chỉ là những quả quýt còn xanh. Giờ là lúc vườn quýt  chín rộ, Duyên chọn những quả quýt to, da mỏng, óng màu vàng cam để hái, một phần biếu o Liên, một phần Duyên sẽ đặt lên bàn thờ ba. O Liên cũng có cùng suy nghĩ như Duyên, nên thấy Duyên mang quýt vào liền bảo:

  • O lấy vài quả thôi. Còn lại bé sắp ra dĩa đem lên bàn thờ mà cúng cho ba mi. Nó ưng ăn quýt nhất.

Vừa nói o vừa nhón lấy mấy quả quýt cầm trên tay, rồi đứng dậy nói với mẹ:

  • Việc tạ lăng tui bàn với mợ như rứa. Phải mời thầy bên chùa. Làm in như hôm mãn tang vậy nghe.

O Liên bước xuống bậc cấp, chợt quay lại nói với mẹ:

  • Mà mợ nì, răng nhiều lần tui ra thăm mộ, thường thấy có chân nhang cắm ở rìa đất bên cạnh mộ mạ. Ai vào làm việc ấy không biết nữa? Nhang khói mồ mả chớ làm điều khuất tất mợ nghe.

Hai mẹ con nhìn theo o Liên ra ngõ, rồi nhìn nhau: ánh mắt đều ái ngại, lo âu. Cái chân hương o Liên thấy cắm ở mô đất nhỏ sát chân tường mộ mệ nội là bí mật chỉ có ba người biết mà thôi. Duyên nhớ lại cái lần vào bệnh viện Trung Ương với mẹ. Chị Di đón mẹ ở cổng bệnh viện, trao cho mẹ túi giấy nhỏ, mắt đỏ hoe, giọng nói run rẩy:

–     Mẹ ơi, mẹ giúp con đem chôn em bé này với. Của chị Dung đó mẹ ơi. Mẹ đừng nói cho ba và o Liên biết việc ni nghe mẹ.

Rồi chị khóc òa, tức tưởi. Mẹ ôm lấy vai chị:

  • Đừng khóc bé. Có mẹ đây mà. Mẹ sẽ luôn ở bên các con.
  • Chị Dung bảo con giấu luôn với mẹ. Nhưng con biết đem em bé đi mô. Cô y tá ở phòng phẫu thuật bảo với con thai nhi đã thành hình hài, đó là con trai. Cô ấy nói phải báo cho người nhà mang về chôn đừng vứt bỏ mà mang tội.

Mẹ bảo với chị Di:

  • Con làm rứa là đúng lắm. Chừ đưa mẹ vào thăm chị trước đã.

Chị Di dẫn mẹ và Duyên đi qua nhiều hành lang, qua nhiều khoa phòng. Cuối cùng cả ba mẹ con đứng trước phòng Phẫu thuật sinh đẻ có kế hoạch. Mẹ bảo Duyên cầm cái túi giấy đứng ở ngoài chờ. Mẹ và chị Di  vào phòng. Một lát sau, mẹ trở ra một mình, cầm lấy túi giấy và nói với Duyên:

  • Những gì bé thấy hôm ni tuyệt đối không hé nửa lời với ai. Ba có hỏi, bé nói theo mẹ vào thăm chị Dung bị sốt siêu vi nghe.

Thế là hai mẹ con quày quả về làng, chôn em bé cạnh mộ mệ nội xong. Mẹ trở lại bệnh viện chăm sóc chị Dung. Hôm sau mẹ đưa chị về nhà. Cuối tuần, chị về lại Huế. Trước khi đi, chị ôm lấy mẹ, nước mắt rưng rưng:

  • Con cám ơn mẹ nhiều lắm.

Đó là lần đầu tiên chị gọi “Mẹ” một cách trìu mến. Trước đây chị thường nói trống không, có khi gọi mẹ là “Dì Lan”. Dù chị xưng hô thế nào, mẹ vẫn vui vẻ, có lần Duyên nghe mẹ nói với ba: “Anh không hiểu tâm lí con gái mô. Bao giờ mẹ mình cũng là nhất cả. Đừng la mắng con mà tội anh nờ.” Duyên nghe o Liên kể sau khi chia tay với ba, mẹ chị đi bước nữa, có thêm hai em, ở tận Đaklak, dường như chưa lần nào về thăm con. Có lẽ vì thế chị sống nội tâm, ít nói, đôi mắt u ẩn nỗi buồn. Học hết cấp 3, chị xin đi học may rồi làm công nhân cho Công ty may mặc  Vinaco. Năm ấy là năm đầu chị Di lên Đại học. Chị đón em gái về ở chung nhà trọ  và hứa với ba sẽ chu cấp học phí cho em gái ra trường. Chị yêu và có thai với một anh nhân viên đường sắt. Phát hiện ra anh ta đã có vợ con ở quê nhà, chị quyết định bỏ đứa bé. Để quên đi vết thương lòng và nỗi đớn đau, năm sau chị đi lấy chồng, chồng chị là phó giám đốc công ty nơi chị làm việc. Chồng chị người Nhật, hơn chị gần hai mươi tuổi. Lúc ra sân bay Phú Bài tiễn chị về Osaka, thấy ba mẹ nước mắt ngắn dài, chị nói: “Ba với mẹ yên tâm. Mỗi năm, con hứa sẽ sắp xếp về thăm ba mẹ và các em một lần.” Nhưng chị đi biền biệt. Ngày đưa ba ra cồn Săm  nằm gần mệ nội, gần đứa con đầu lòng của chị, chị vẫn ở nơi phương trời xa. Chắc nơi ấy, đôi mắt u ẩn nỗi buồn lại chất chồng thêm nỗi đau và nhớ…

*

Buổi tối, Duyên học bài ở chiếc bàn gỗ tròn đặt giữa nhà, mẹ ngồi chằm nón trên sập. Học bài xong,  Duyên lấy chiếc phong bì ra ngắm nghía. Duyên nhớ lại buổi sinh hoạt dưới cờ chiều nay. Khi thầy Bí thư Đoàn trường công bố kết quả cuộc thi “Viết về mẹ” chào mừng ngày  20.10: “Giải  nhất về thơ: đó là  bài thơ “Còng về với biển” của em Nguyễn Xuân Duyên, lớp 11 P1.” Các bạn vỗ tay nồng nhiệt chúc mừng,  niềm vui lâng lâng trong lòng Duyên  không sao tả xiết. Dường như nắng cuối thu chiều nay vàng hơn, thắm hơn mọi hôm. Duyên nhìn thấy những tán cây bàng quanh sân trường như ánh lên màu lửa từ những chiếc lá đỏ lúc giao mùa. Và sân trường lặng yên khi nghe Cô Lam, tổ trưởng tổ Ngữ văn lên đọc và nhận xét về bài thơ. Giọng của cô thật truyền cảm. Có những lời cô bình Duyên chưa hề nghĩ sâu xa như vậy. Khi cầm bút Duyên chỉ nghĩ đến mẹ như chú còng tất tả ngược xuôi trên bãi cát dù là trời nắng chang chang hay lúc mưa dầm rả rích. Bài thơ là lời tri ân của chú còng con út ít gửi đến mẹ của mình. Món quà mừng mẹ nhân ngày Phụ nữ Việt Nam. Lẽ ra Duyên tặng mẹ từ lúc chiều, khi mới về nhà. Nhưng do có o Liên đến chơi nên Duyên chưa kịp đưa cho mẹ.

  • Phong bì chi rứa bé? Thư mời họp phụ huynh hở bé?

Tay mẹ chằm nón nhưng mắt vẫn dõi sang chiếc bàn tròn nên cất tiếng hỏi Duyên. Duyên  đứng dậy, cầm phong bì qua trao cho mẹ:

  • Quà bé tặng mẹ nì.

Mẹ đặt chiếc nón đang nức vành xuống sập, cầm phong bì lên, đọc những dòng chữ bên ngoài bì thư, mắt mẹ mở to, ngỡ ngàng, giọng mẹ reo vui:

  • Ôi, con mẹ giỏi rứa à. Mẹ chỉ nhận phong bì thôi, còn tiền, mẹ tặng lại bé. Bé đem phong bì để lên bàn thờ đi. Ba nhìn thấy sẽ vui lắm đó.

Duyên làm theo lời mẹ. Rồi trở lại sập ngồi bên mẹ. Mẹ kéo chiếc gối để sẵn trên sập lại gần, bảo Duyên:

  • Bé nằm đây đọc cho mẹ nghe bài thơ đi.

Duyên kê đầu lên chiếc gối, nhích nhích người cho chiếc gồi trồi lên sát đùi mẹ. Thấy vậy, mẹ nhấc nó ra kê đầu Duyên lên gối mình. Mùi của mẹ quen thuộc thấm vào từng câu thơ Duyên đọc:

“CÒNG VỀ VỚI BIỂN

Còng ở sông, lưng cong, mai mượt.

Tắm phù sa, sóng vỗ đôi bờ

Chân thon dài, sóng sánh mắt hiền mơ

Đón nắng hồng lên.

Chầm chậm, chiều qua sắc tím.

Mùa xuân đến, lấp lánh dòng sông hoa,

Tiễn đưa tuổi ngọc ngà,

Hoa ô môi rắc đầy dòng sông tím.

Ngập ngừng ra biển,

Biển rạo rực dang tay đón còng về.

Cát trắng khôi nguyên, tơ trời vàng rực.

Rồi những ngày mưa trắng trời trắng đất, bão lũ kinh hoàng,

Rồi những ngày hè nắng lửa, gió Lào sang, mình vùi cát bỏng.

Chín tháng trôi chậm, mười một năm qua nhanh.

Muối mặn gừng cay,

Chân son phai dấu, mắt nay đã mờ, mai mặn biển khơi,

Còng vẫn mải miết bước đi trên cát.

Chốn hồng hoang của đất trời,

Nên lặng lẽ còng về với biển.”

Duyên đọc xong, cảm thấy giọng mình tối nay sao giống như cô Lam lúc chiều. Mẹ ngồi thừ người, như nghĩ ngợi suy tư, rồi bảo:

  • Bài thơ thật cảm động. Mẹ cảm thấy như rứa, nhưng không diễn đạt được cụ thể nó hay ra răng. Phải chi có chị Di ở đây… – Mẹ thở dài, bỏ dở câu nói.
  • Con đã gửi bài thơ kèm ảnh phong bì báo tin cho chị Di rồi. Mà răng chị chẳng trả lời mẹ nờ. Sao lâu quá chị không về nhà hở mẹ?
  • Chắc chị bận bé à.

Mà chị Di bận cũng phải thôi. Chị đang học năm cuối cao học chuyên khoa  Nhi. Hôm mãn tang ba, chị về nhà đúng lúc thầy cúng xả tang, trông chị gầy đi nhiều. Thấy vậy, o Liên  bảo chị: “Mi học chi cho cố mà gầy xơ gầy xác rứa.  Hết đại rồi cao. Ế chồng thì  răng?” Chị chỉ cười.

  • Thôi bé nằm ngủ đi. Mẹ nức vành chiếc nón ni xong, còn làm quai nữa. Khi mô xong mẹ gọi bé vào giường.

Mẹ kéo gối lại cho Duyên kê đầu. Tay mẹ lại thoăn thoắt. Mũi kim, sợi dây gấc cứ lên xuống nhịp nhàng. Duyên chợt nhớ lời nhỏ bạn thân thì thầm trước lúc chào cờ: “Nì, trưa ni Hoa thấy thầy Lâm chở mẹ Duyên đi ngang qua cổng trường mình đó.” Trường Duyên nằm cạnh quốc lộ, giữa đoạn đường đi Huế và Hương Trà. Mẹ đi về phố hay lên thị xã? Sao người chở mẹ là thầy Lâm? Niềm vui lĩnh giải thưởng choán ngộp làm Duyên quên đi thắc mắc, bây giờ Duyên mới nhớ, Duyên khẽ gọi:

  • Mẹ ơi !
  • Chi rứa bé?
  • Trưa ni mẹ đi Huế hở?
  • Răng bé biết?
  • Nhỏ Hoa nó nói nhìn thấy thầy Lâm chở mẹ nên bé đoán vậy thôi.

Mẹ lặng im, không nói gì. Đôi tay đã ngừng mà sợi dây gấc run run. Linh tính như báo trước điều gì đó bất an, Duyên ngồi bật dậy:

  • Mẹ nói cho bé biết đi. Đã có chuyện gì xảy ra với chị Di vậy mẹ?
  • Di và Lâm chia tay nhau bé à.
  • Chị Di đề nghị trước nên anh Lâm nhờ mẹ nói giúp hở mẹ?
  • Gần như rứa. Thôi bé ngủ đi. Sáng mai mẹ đưa bé đi Huế.
  • Đi thăm chị Di hở mẹ? Bé sẽ cùng mẹ khuyên chị ấy đừng bỏ anh Lâm mà tội mẹ nghe.

Mẹ gật đầu rồi kéo chiếc gối lại gần. Duyên nằm xuống nghĩ ngợi bâng khuâng. Quả thật tình yêu là gì Duyên chưa biết. Nhưng mối tình của chị Di và anh Lâm, thầy giáo dạy Duyên môn Toán, là thần tượng với Duyên. Anh chị cùng sinh ra lớn lên bên dòng sông Bồ. Cùng học chung mái trường thời cấp 3. Những năm trọ học ở Huế, đầu tuần chở nhau đi, cuối tuần đưa nhau về.  Anh học sư phạm ra trường đi dạy. Năm năm qua, chị tiếp tục học lấy bằng thạc sĩ. Tháng tới chị lấy bằng thạc sĩ. Dù không nói ra,  nhưng gia đình hai bên đều vun vén cho anh chị. Đúng là như Xuân Diệu viết: “Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ/ Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết.” Nếu thật sự hai người chia tay quả là không ai ngờ được.

*

Sáng chủ nhật, mẹ đưa Duyên vào thành phố. Xe đến cầu Dã Viên thấy mẹ không qua cầu, mà rẽ phải đi về hướng Kim Long. Duyên ngạc nhiên, hỏi mẹ:

  • Không qua nhà trọ của chị Di hở mẹ? Mình đi mô rứa mẹ?
  • Bé đi đến khắc biết.

Mẹ cho xe chạy chầm chậm theo đường Kim Long. Qua chùa Thiên Mụ. Lên Hương Hồ. Qua khu Du lịch Sinh thái Về nguồn. Phố xá lùi dần. Nhà dân thưa thớt, dường như không thấy nhà tầng. Bãi ven sông Hương xanh màu rau đậu. Bên trong những giậu chè xanh, vườn chuối, bưởi, cau. Nhiều nhà, hàng rào trước ngõ  hoa mướp vàng tươi trong nắng sớm. Đường càng lúc càng lên cao, khó đi, quanh co, xa xa là những đồi cây xanh. Xe qua chiếc cầu trắng bắc qua con lạch nhỏ, phía trước là một nhà thờ. Người dân đi lễ từ cổng ùa ra. Mẹ dừng xe lại, bảo Duyên xuống xe, chờ mẹ ngoài cổng. Mẹ vào gửi xe, lúc trở ra,  tay ôm bó hoa cúc trắng, tay còn lại  xách túi bóng có vẻ nặng nề. Duyên đón lấy chiếc túi xách từ tay mẹ, và nói:

  • Mẹ để bé xách túi ni cho.

Mẹ lặng lẽ đi trước, Duyên bước theo sau. Hai mẹ con đi cặp con đường bên hông nhà thờ lên con dốc. Nhìn vào túi Duyên thấy có cả hương và tiền giấy, Duyên ngạc nhiên hỏi:

  • Mẹ ơi, mình đi thăm mộ ai rứa mẹ?
  • Mộ của em bé con chị Di – Mẹ trả lời và chân vẫn bước đi.
  • Hôm qua anh Lâm đưa mẹ đến đây hở mẹ? Ai đem em bé lên đây vậy mẹ? Chuyện xảy ra khi mô vậy mẹ?

Thấy Duyên hỏi tới tấp. Chân bước trầy trật. Giọng nói hụt hơi. Mẹ dừng lại bảo:

  • Bé ôm bó hoa nì. Đưa túi xách cho mẹ. Mình lên hết con dốc ni, mẹ cho bé nghỉ chân. Em bé nằm trên triền đồi cao kia.

Theo hướng tay mẹ chỉ Duyên chỉ thấy rừng cây keo tràm, hoa vàng nở lấm tấm. Hai mẹ con đến lưng chừng dốc là đường cua rẽ trái. Một cặp đôi nam nữ thả dốc, thắng rít, xe chầm chậm ngang qua mặt, nhìn mẹ và Duyên ánh mắt có vẻ ngạc nhiên. Mẹ bảo Duyên:

  • Hôm qua Lâm chạy xe đưa mẹ lên trên ấy. Dặn mẹ khi mô có đi thăm em bé gửi xe ở nhà thờ. Mẹ yếu tay, lên xuống dốc ni nguy hiểm lắm.
  • Mẹ ơi, răng chị Di phải bỏ em bé. Bé thấy hai anh chị yêu nhau lắm mà. Sinh con xong chị học tiếp cũng được mà. Hay chị sợ nhà anh Lâm chê chị “ăn cơm trước kẻng” hở mẹ?
  • Bên nhà Lâm chưa biết gì bé nờ. Do chị Di bị u nang buồng trứng. Đứa bé ni cũng những đứa bé khác nếu chị sinh ra gần như sẽ bị dị tật. Thôi mình lên đồi bé à. Trưa nay mẹ đưa bé qua an ủi chị Di. Chuyện ni bé cũng không được hé nửa lời với ai, nhất là o Liên nghe.

Mẹ không dặn Duyên cũng nhủ lòng như thế. Khi ba còn sống, nhiều lần thấy o xét nét với Duyên, ba nói: “Chị răng rứa, cứ bên trọng bên khinh. Đứa mô cũng cháu mà chị chỉ thương Dung với Di thôi là răng.” O giãy nảy: “Cậu biết tính tui rồi, phụ nữ mà ăn cơm trước kẻng là tôi không ưng. Cậu cưới mạ nó mới hơn sáu tháng đã sinh con rồi. Chả lẽ tui nói oan hay là người ta ăn ốc cậu đổ vỏ?” Những lúc ba và o căng thẳng như vậy, mẹ thường nhỏ nhẹ khuyên ba nên nhún nhường cho êm nhà êm cửa. Mẹ và Duyên thiệt thòi một chút cũng không sao. Tính o ào ào, ưng nói kiểu đao to búa lớn có lẽ do đời o số phận hẩm hiu. Lấy chồng gần chục năm không sinh được con. Chồng ly hôn, cưới vợ khác. Ba mẹ đón o về ở chung nhà. Năm ba trồng vườn quýt, xây riêng cho o căn nhà nhỏ ở cuối biền.

*

Khi hai mẹ con lên hết con dốc,  đồi bên trái là những ngôi mộ lớn, bề thế, lô nhô nhiều tầng cao thấp. Mẹ dẫn Duyên đi về phía đồi phải. Sườn đồi thoai thoải, những ngôi mộ nhỏ xây ngang dọc thẳng tắp, trước mộ đều có chữ thập. Những tầng trên, mộ nào cũng viền gạch men trắng, trên mộ đổ đá cuội xanh. Những tầng cuối, mộ mới xây, là những hộc nhỏ hình chữ nhật dài khoảng sáu tấc, ngang bốn tấc, còn những vệt xi măng chưa khô, cát chỉ đổ lưng lửng. Trông thấy mẹ và Duyên đi vào, một cô gái  đang thắp hương cho ngôi mộ ở tầng gần cuối vội lấy mũ áo che mặt đi xuống dưới đồi. Cùng lúc đó có một mệ tóc bạc trắng như cước, từ căn chòi nhỏ che tạm bằng mấy tấm bạt giăng qua mấy cành tràm  bước ra. Trông thấy mẹ, mệ nói:

  • O lại lên thăm em à? Đây là… – Mệ nhìn Duyên, bỏ lửng câu nói.
  • Dạ không, cháu nó là em gái. Chị bé mới gửi em ở đây mẹ nờ.
  • Mệ xin lỗi nghe. Con bé vừa rồi cũng trạc tuổi như ri. Nói tội lỗi o nờ, nó đem em bỏ ngoài đám cỏ kia mệ đem vào chôn đấy. Hôm ni lên thăm mộ mà cứ lắm la lắm lét, mệ phải tránh mặt. Nó vừa thắp hương kìa.

Theo bàn tay mệ chỉ, ở tầng cuối cùng, trên nấm mộ là một nắm hoa cúc dại lơ thơ mấy nụ hoa còn xanh heo héo, ba cây nhang cắm vội, nghiêng xiêu về một bên. Mẹ  Duyên lấy chiếc lục bình trong túi, bảo Duyên mang hoa cúc cắm vào đặt trước ngôi mộ ở tầng thứ 9, từ ngoài đếm vào là ngôi thứ năm. Mệ già đem chai nước lọc tới rót vào  bình, nói với Duyên:

  • Cho nước vào kẻo hoa héo bé à.

Mẹ Duyên lấy hai dĩa bồng, một dĩa đặt mấy hộp sữa; một dĩa bày trái cây, phía trên là tiền giấy. Mẹ đốt cả bó hương, giữ lại ba cây, còn lại bảo Duyên chia ra cắm hết các ngôi mộ xung quanh. Duyên làm theo lời mẹ. Bó nhang to, cắm trước mộ chỉ một cây, nhưng đến hàng thứ mười đã hết. Duyên đi vòng quanh nghĩa trang một lượt. Mỗi ngôi mộ là kết quả của một cuộc tình ngang trái. Nhìn những ngôi mộ cũng hiểu tâm tình người cha, người mẹ. Có mộ quàng xâu chuỗi ngọc vào thánh giá. Có mộ đặt mâm dĩa: bình sữa, đồ chơi. Bình hoa nhựa. Bát hương. Vài ngôi mộ hoa còn tươi. Có mộ gắn bia  đá, ghi rõ  tên con, tên cha  mẹ, ngày mất. Nhiều nhất vẫn là “Hữu vị vô danh”. Duyên xúc động nhìn dòng chữ: “Ba mẹ nghìn lần xin lỗi con” ở phần mộ bên cạnh ngôi mộ mẹ đang khấn vái. Những ngôi mộ trống trơn không bia, không lư hương, mệ tóc bạc bảo đó là những ngôi mộ vô chủ. Phía sau đồi cũng có một vạt mộ nhưng nhỏ hơn, hầu như đã lâu vắng bóng người tới thăm. Duyên định vòng qua xem thì mẹ bảo đem tiền giấy ra đốt. Đang mùa nắng, nhìn xung quanh lá tràm khô rụng đầy gốc, gió thốc lá bay vào cả nghĩa trang. Mẹ cùng Duyên đem giấy ra đường lớn. Mệ tóc bạc cũng lẽo đẽo theo sau, sà xuống ngồi cạnh mẹ, Mẹ Duyên vừa quẹt bật lửa vừa cất tiếng hỏi mệ:

  • Nhà mệ ở mô? Mệ làm ở đây lâu chưa mệ? Người mô thật có tâm mới nghĩ ra và xây dựng cái nghĩa trang này mệ hỉ?
  • Nhà mệ ở cạnh nhà thờ. Ôn nhà mệ nằm trong ban giúp lễ. Năm cha xứ cho phá triền đồi xây dựng nghĩa trang ni, ôn mệ lo nước nôi cho mấy chú thợ xây mồ. Thấy khôn ai quét dọn, mệ tự nguyện lên đây. Cũng hơn mười năm rồi. Bây chừ, ngày mô khôn lên thăm các em mệ thấy buồn chân buồn tay lắm o à.
  • Dạ mệ, răng em của chị con mới gửi năm ni lại được nằm ở tầng trên vậy mệ? – Duyên cất tiếng hỏi mệ.
  • Cái duyên cả bé nờ. Cái hôm cậu thanh niên mang em lên đây. Phần mộ ô đó vừa có người bốc đi. Mệ chỉ chỗ và giúp cậu ta chôn em vào đó. Nghe cậu kể hoàn cảnh mệ thấy thương lắm. Quả thật là nghịch cảnh. Thấy phúc mà lại vô phúc. Hữu duyên mà lại vô duyên.

Mệ vừa nói vừa lấy cành cây khô cời xấp giấy đốt. Một cơn gió thốc đến. Tro tàn bay lả tả ra xa. Nhìn xuống chân triền đồi, Duyên thấy cô gái vẫn còn ngồi bất động trên bãi cỏ.

*

Đêm nay, mẹ và Duyên đi ngủ sớm hơn mọi hôm. Mùi quýt chín từ vườn theo gió lùa qua cửa sổ, căn phòng ngập trong hương thơm. Duyên nghiêng người ôm lấy mẹ, khẽ gọi:

  • Mẹ ơi !
  • Chi rứa bé?
  • Răng lúc trưa mình đến nhà trọ mà không đợi chị Di về để nói chuyện hở mẹ?
  • Lúc đầu mẹ định rứa, nhưng mẹ nghĩ lại, chị Di đã cố giấu, chừ mẹ và con khơi lại nỗi đau khác nào đâm dao vào tim chị thêm lần nữa. Là phụ nữ không ai muốn cắt đi núm ruột của mình. Nỗi đau ấy chỉ ai trong hoàn cảnh mới hiểu được bé nờ.
  • Như mẹ ngày xưa hở mẹ? – Duyên buột miệng nói ra, điều mà chính Duyên không nên khơi gợi lại.

Mẹ lặng im. Duyên thấy hối hận vì mình lỡ lời. Duyên lấy hai tay ôm lấy khuôn mặt mẹ, nước mắt mẹ ướt đẫm tay Duyên.

  • Mẹ ơi, bé xin lỗi mẹ.
  • Bé có lỗi gì cơ chứ – Mẹ thổn thức – Mẹ mới là người có lỗi. Nếu không có ba Duy, con đã…

Duyên không biết làm gì hơn là lấy cánh tay áo lau nước mắt cho mẹ. Hồi lâu, mẹ lên tiếng hỏi Duyên:

  • Bé biết chuyện khi mô?
  • Lúc đầu, bé mơ hồ đoán qua những lời nói bóng gió gần xa của o Liên. Rồi trước ngày ba mất mấy hôm, ba kêu bé đến bên giường và kể với bé rằng: năm xưa, một lần ba ngược thượng nguồn sông Bồ lưới cá. Ba đã cứu một người phụ nữ nhảy xuống sông tự tử vì người yêu phụ tình. Ba đã đưa cô ấy về nhà. Hơn sáu tháng sau, cô ấy sinh một bé gái, đó chính là con. Ba nói lá rụng về cội, con hỏi mẹ để tìm cha ruột của mình.
  • Răng con không hỏi mẹ?
  • Con thấy mình có phúc hơn em bé của chị Dung rồi mẹ à. Con chỉ có một người ba thôi, dù ba không sinh ra con.

Duyên đắn đo một chút rồi nói với mẹ:

  • Hay là mình đem em bé của chị Dung lên nghĩa trang đi mẹ, cho có anh có em. Mỗi lần chạp mộ, thanh minh, mình không phải lén lút nữa mẹ à.
  • Và mẹ con mình sẽ đặt bia gắn lên mộ cho hai em nữa chứ Duyên.

Duyên ôm ghì lấy mẹ. Mùi của mẹ, mùi quýt chín phả vào giấc ngủ thật bình yên.

       

Thảo Giang