Từng vạt không khí rung rinh bởi hơi nóng hừng hực bốc lên từ mặt đường bê tông làm tôi khó thở. Âm thanh ầm ầm của đoàn xe lớn kéo nhau chở gỗ từ rừng ra càng khiến cái nắng trưa mang lại cảm giác bực bội hơn bao giờ hết. Lại một buổi trưa ngủ chẳng vào giấc. Tôi uể oải lê mình sang nhà ông út May nghỉ mát. Tôi mê lắm cái sân nhà nho nhỏ được bao quanh bởi những rặng hoa giấy xanh mướt ôm mình gọn ghẽ trên mái vòm mà ông đã cần mẫn uốn nắn từ ba năm trước. Không khí ở đây có chút dễ chịu nhưng vẫn không ngăn hết được tiếng động cơ xe ầm ĩ, tiếng máy cưa như muốn cứa vào tai người ta những nhát cắt sắc lẹm vang vọng lại từ triền đồi cách đây không xa. Chân đồi ấy là nơi chúng tôi từng thuộc về.
Ông May vẫn thong dong ngồi vẽ như mọi ngày. Có vẻ, ông lại đắm mình vào một miền đất nào đó, xa lạ nhưng cũng đầy quen thuộc. Mỗi lần ngắm tranh của người hoạ sĩ già này, lòng tôi lại xốn xang tiếc nuối những ngày xưa cũ lúc còn được cùng cha đi hái măng rừng, hái rau dớn. Giờ thì làm gì còn những thứ quà ấy nữa để mà hái. Đã lâu rồi, tôi chỉ có thể gặp lại chúng ở trong trí tưởng tượng. Tôi thích được lạc mình vào những miền ký ức khi khu rừng gần nhà còn xanh mướt, khi chim còn líu lo hót, nắng còn được tinh nghịch xuyên qua những tán lá, đất còn ẩm ướt, sộc lên mùi âm ẩm đầy hoài niệm, mùi bùn còn ngai ngái sau mỗi lần tôi dẫm vào vũng đọng lâu ngày và rừng còn hát vi vu mỗi khi trời lộng gió…
Tôi từng nghe Rừng hát! Tiếng hát bao la vọng về từ đại ngàn bất tận. Tiếng hát xào xạc xoa dịu giấc ban trưa.
“Sáng mốt tao làm mâm cúng nho nhỏ cho bà, mày rảnh thì sang phụ tao một tay” – ông May nói trong khi vẫn chăm chú tô đi tô lại một mảng màu lên trang giấy. Tôi khẽ giật mình, bừng tỉnh khỏi những suy nghĩ vu vơ. Nhanh đến lạ, đã là cái giỗ thứ ba của bà út rồi, đã ba năm kể từ ngày bà mất tăm trong đợt lũ quét kinh hoàng ấy – cơn lũ quét đã nuốt trọn làng tôi. Bà mất, chẳng còn ai làm cho tôi món bánh chuối hấp thơm nức mũi, chẳng còn ai thèm gọi tôi sang chơi mỗi khi có món gì thú vị mà con cháu gửi từ tận thành phố về. Bà đi mà không chào tạm biệt, tôi và ông út giận quá xá. Bực hơn nữa là ông út giận cá mà chém thớt, suốt một tháng trời ông chẳng thèm nói chuyện với ai, thế mà cứ như đinh đóng cột ngồi mãi bên bàn thờ bà lẩm bẩm suốt. Rồi từ đó, ông cũng chẳng thèm vẽ gì khác nữa mà chỉ vẽ mỗi rừng.
Ánh mắt ông út bám chặt vào trang giấy mà lại như trôi tuột vào miền nào xa xăm. Tôi không nhịn được mà hỏi: “Ông có hận họ không?”. Ông thoáng ngừng cọ, nghĩ gì đó rồi lại vẽ tiếp, ông không đáp lời tôi. Tôi thấy lông mày ông khẽ nhíu lại, không phải bởi khó chịu mà là bởi một nỗi đau sâu thẳm dường như đang được khơi dậy từ tận đáy con tim đã cằn khô. Tôi thấy có lỗi quá… nhưng cũng bứt rứt không thôi trước cái cảnh ông chỉ biết che giấu nỗi buồn. Cuối cùng, ông cũng lên tiếng:
– Bọn chúng chỉ đang cố vét cạn những gì rừng cho chúng đấy thôi. Rồi mày coi, một hai năm nữa, đất rừng bị biến thành đất trồng cây công nghiệp tất – ông nghiêm giọng.
Tôi rối bời, vừa thấy thương cho những kiếp người chật vật vì cơm áo, vừa thấy hận bởi họ vì miếng cơm mà giẫm đạp lên Đất Mẹ, giẫm đạp lên sự sống của đồng bào. Chúng tôi đã ở đây, đã chứng kiến tường tận cái cảnh từng đoàn xe hầm hố tiến vào rừng, trông hệt như đoàn binh đang dấn mình vào cuộc viễn chinh đầy vĩ đại. Và chúng tôi được dạy rằng loài người phi thường. Họ “bé nhỏ” nhưng lại đầy cao cả, họ cầm đầu, họ chinh phục được tự nhiên. Và loài người oai hùng kia đã anh dũng chiến đấu với ngàn vạn những đại thụ, để rồi cuối cùng, những thân gỗ có tuổi đời bằng mấy thế hệ người dân ở đây cộng lại cuối cùng cũng phải quỵ xuống trước lưỡi cưa, trước ngọn lửa hung hãn của loài người. Ấy là chưa kể, những cây nhỏ cũng bị tận thu, càn quét. Dần dần, tôi chẳng còn nghe rừng xào xạc mỗi khi gió ghé đến, thay vào đó, tiếng gió hắt hiu rít qua những cành cây trụi lá đứng khẳng khiu dội vào lòng tôi một nỗi bất an khó tả. Tôi nghe Rừng khóc…
Ông út thở dài, ánh mắt hướng về nơi tiếng máy cưa không ngừng gào thét. Rồi người đàn ông tóc bạc nói như đay như nghiến, như muốn thoả hết những day dứt đã dày xéo mình trong suốt ba năm: “Bọn chúng đâu có biết rừng là Mẹ. Mẹ Rừng bao dung coi ta như những đứa con, ban tặng ta tất cả những gì ta muốn nhưng chắc chắn sẽ không khoan nhượng mà phạt những đứa con hư – những đứa con suốt ngày chỉ biết vòi vĩnh Mẹ”. Hít một hơi thật sâu, như cố nuốt cái gì đó vào trong, ông nói tiếp: “Tao không hiểu, tao không hiểu nổi vì sao hình phạt của Mẹ nặng đến thế mà bọn chúng vẫn không tỉnh ngộ. Hoặc đã tỉnh ngộ rồi nhưng lại bị lòng tham làm cho mù mờ, cho chếnh choáng. Hoặc đã biết mình là đứa con hư nhưng hình phạt của Mẹ lại vô tình giáng xuống những người khác nên chúng vẫn còn nhởn nhơ chưa thèm sợ. Chúng nó bạc tình trước cái chết của đồng bào, trước sự kiệt quệ của Đất Mẹ, nhóc ạ”.
Giọng ông út khẽ run lên, đôi mắt sáng giờ đây tối sầm lại. Tôi không đủ lớn để nhìn đời bằng con mắt đầy sắc sảo như ông hoạ sĩ đang ngồi cạnh tôi đây, nhưng cũng không còn nhỏ để ngoảnh mặt làm ngơ trước sự thật rằng con người đang tự giết đồng loại mình (và rồi sẽ có ngày giết chính mình) bởi những tham vọng nhuốm màu ích kỷ. Nỗi đau mất mát của ông Út cũng như nỗi đau mất mát của Mẹ Rừng, khó chữa lành nổi. Thịt da của Mẹ cháy xém, tài sản của Mẹ dần cạn kiệt sau bao lần những đứa con tranh nhau giành giật của cải, chúng nó không quan tâm đến người mẹ hiền đang còm cõi kêu than. Chúng nó oán trách Mẹ mỗi lần Mẹ đưa ra hình phạt, rồi lại tung hô Mẹ mỗi lần mẹ ban tặng cho nó muôn vàn thứ quà. Dòng nhựa sống ngào ngạt vốn chảy tràn, vốn cuồn cuộn giờ đây đã đến ngưỡng cạn kiệt, khô khốc. Và… Rừng chết. Những đứa con làm gì sau khi mẹ chúng chết? – Thay vì tiếc thương, chúng đi tìm một người mẹ khác sẵn sàng ôm ấp lòng tham vô đáy của chính mình, tiếp tục vắt cạn kiệt sức lực của người mẹ mới.
Rừng chết. Và sẽ chết.
Tôi và ông lão nói, Rừng có nghe không? Tôi chẳng biết, nhưng chúng tôi đều nghe được tiếng Rừng cười, tiếng Rừng than, tiếng Rừng khóc. Chúng tôi nghe cậu! Nhưng, nỗ lực gìn giữ của chúng tôi chẳng là gì so với tốc độ khai thác nhanh đến kinh hoàng của những người đã đánh đổi nhân tính để lấy của cải và nước mắt của chúng tôi đành bất lực trước ngọn lửa thiêu rừng ngày một lan nhanh, Rừng ạ!
Ông út đặt gọn bức tranh vừa hoàn thành của mình vào khung, treo tuỳ ý lên ngay trên bức tường gạch rêu phủ nhẹ, dưới là những chậu cẩm tú cầu đủ trắng đủ tím được đặt sát, bên cạnh những bức vẽ cũ khác. Trong tranh, giữa mảnh rừng đen ngòm, trống hoắc, một cô gái ôm mình nằm cuộn tròn. Một phần thịt da cô hoà với đất để rồi xung quanh mọc lên một mảng cỏ xanh tươi. Tôi bất giác ngơ ngẩn – lần đầu tiên màu xanh xuất hiện trong tranh của ông út. Ông nhìn tôi đang ngơ ngác rồi khẽ cười: “Tao, mày hay bất kỳ ai đều sẽ phải trả lại. Trả cho đất, cho rừng, cho tất cả những gì chúng ta đã vay mượn”.
Ngoài kia, tiếng cưa vẫn vọng về…
Đánh giá bài viết
Bài viết liên quan: