Thơ của… nhà văn

Với những cung bậc, sắc thái khác nhau, nhiều khi thơ họ làm cho người đọc ngạc nhiên, thích thú, có cả những khi làm người đọc phải … phì cười nữa!

Từ trái qua: Nhà văn Nguyễn Công Hoan, Giáo sư Đặng Thai Mai, nhà phê bình Hoài Thanh và Nhà giáo nhân dân Huỳnh Lý.

1. Nhà văn ở đây, xin hiểu là những người viết văn xuôi và những người viết lý luận, phê bình văn học. Họ làm những việc ở lĩnh vực chuyên môn của mình, thường không làm thơ để đăng báo, in sách, nhưng thỉnh thoảng cũng có làm thơ để… chơi, hoặc để tặng người thân, bạn bè. Với những cung bậc, sắc thái khác nhau, nhiều khi thơ họ làm cho người đọc ngạc nhiên, thích thú, có cả những khi làm người đọc phải … phì cười nữa!

Ta hãy xem qua vài trường hợp.

2. Chắc rất ít người nghĩ rằng mình có thể được đọc thơ của một nhà chuyên nghiên cứu và lý luận như Đặng Thai Mai (1902-1984). Hiện mới thấy hai bài của ông in ở vài quyển sách và có in trong “Toàn tập Đặng Thai Mai” (Nhà xuất bản Văn học, 1997). Đây là bài “Từ biệt bạn”, Đặng Thai Mai viết trong những ngày bị giam ở nhà lao Huế, năm 1930 (vì phụ trách phong trào Cứu tế đỏ ở Huế).

Từ biệt bạn:

Trần đồ phân Nam Bắc

Liếc phong quang chạnh tiếc lúc tao phùng

Trước sông Hương gió cuốn bụi hồng,

Đường dặm liễu chân trời trông xanh ngắt.

Thử địa, thử nhân, tùng thử xuất

Nào cung đàn nghe réo rắt giọng hoài nhân.

Thôi can chi mà chuốc não cưu hờn,

Cười một tiếng nhấp ngon liều biệt hận.

Mảnh thân thế hẹn tang bồng nợ sẵn.

Mượn vần thơ mà nhắn bạn tâm giao.

Tình sâu, bể rộng, non cao,

Yêu nhau thấu hiểu lòng nhau mới là.

Tiễn đưa một chén quan hà!

Lời thơ già dặn. Giọng thơ gần với các nhà cách mạng cũng là các nhà thơ đương thời như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Huy Liệu… hay trở về trước nữa như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến….

3. Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Huỳnh Lý (1914-1993) suốt đời gắn bó với văn chương, chủ yếu trong các lĩnh vực nghiên cứu, biên soạn sách giáo khoa và dịch thuật. Ông được nhiều thế hệ học sinh, sinh viên và đồng nghiệp kính trọng vì còn là một nhân cách lớn.

Một sinh viên của ông tên là Bạch Mai có lần kể lại tài thơ của ông (trong quyển “Nhà giáo nhân dân Huỳnh Lý – cuộc đời và tác phẩm”, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005): Hồi thầy trò sơ tán lên núi rừng Thanh Hóa, trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, một hôm cô và bè bạn thích thú, vui mừng chuyền tay nhau những bức thư vừa nhận được của gia đình, bè bạn. Gặp đúng lúc Giáo sư Huỳnh Lý đi đến, Bạch Mai khoe nhận được thư của người bạn là Hải Đường đang học Trường Y. Thật bất ngờ, Giáo sư Huỳnh Lý ứng khẩu luôn một bài tứ tuyệt:

Hai bạn Bạch Mai với Hải Đường

Ghi lòng tạc dạ lắm yêu thương

Hai hoa dù cách sông ngăn núi

Vẫn mãi giao tình dưới ánh dương.

Các cô, các cậu sinh viên lúc ấy tròn xoe mắt kinh ngạc, lần đầu thấy thầy giáo mình làm thơ, mà làm thơ rất nhanh! Quả thật, đến các nhà thơ chuyên nghiệp cũng không phải ai cũng làm được những câu thơ có ý nghĩa như thế trong một khoảng thời gian nhanh đến thế!

Đọc một bài nữa để thấy tài thơ của Giáo sư Huỳnh Lý: bài tặng Giáo sư Hoàng Như Mai dịp ông được Nhà nước tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân:

Vững một niềm tin

Nhà giáo nhân dân có những ai?

Trên đài nghe rõ tiếng anh Mai.

Hội An còn nhớ lời ca kịch,

Hà Nội chưa quên giọng giảng bài.

Món nợ văn chương vương vấn mãi,

Mối tình nghệ thuật tỉnh say hoài.

Dạy văn “tải đạo” con thuyền nhỏ,

Vững một niềm tin lại chắc tay.

Ngày 20.1.1990

4. Không mấy ai biết nhà phê bình Hoài Thanh (1909 – 1982) có làm thơ. Phải đến khi bộ “Hoài Thanh toàn tập” in ra (Nhà xuất bản Văn học, 1999), người ta mới được đọc hai bài thơ của ông.

Tôi đã có dịp nói về bài “Viết cho Bền” là một trong hai bài ấy. Nay giới thiệu bài còn lại (không thấy ghi tên bài) dù có hơi dài; vì tìm được bài thơ này đối với nhiều người không phải chuyện dễ (Bài này còn… khá hơn bài “Viết cho Bền”).

Đọc hai bài thơ của Hoài Thanh chắc không ít người ngạc nhiên: Ở quyển “Thi nhân Việt Nam 1932- 1941” ông tinh tế bao nhiêu trong việc nghiên cứu phê bình thơ, thì ở đây, ông vụng về bấy nhiêu trong việc làm thơ:

Bền ơi, thương em quá đi thôi!

Thương từ cái miệng em cười

Hàm răng em trắng muốt

Thương tấm thân em mát rượi dưới tay anh

Thương trí em thông minh

Đôi tay em cần cù, khéo léo

Tính tình em hiền hòa điềm đạm

Quý bè bạn, giúp bà con

Cách xử thế luôn trọn tình, trọn nghĩa

Càng thương em mười mấy năm trời một mình

vò võ mà với nhân dân, với Tổ quốc, vẫn một dạ thủy chung

Khuya sớm tính toan

Ngược xuôi vất vả

Chỉ mong sao góp hết sức mình

Thêm ấm no cho miền Bắc

Bớt đau khổ cho miền Nam

Khi hai đứa mình gặp lại nhau thì cuộc đời riêng đà xế bóng

Có ngờ đâu bỗng lại tràn ngập ánh xuân tươi

Em đến với anh như nàng tiên trong chuyện cổ

Miếng cơm, giấc ngủ

Cả những điều anh suy nghĩ

Những bài anh viết

Những việc anh làm

Tất cả đều sưởi ấm trong tình em âu yếm

Nhưng em đâu phải chỉ là em

Trong tâm trí anh em còn là hình ảnh yêu mến

của chuyến đi ngày trước

Và cũng là hình ảnh của hạnh phúc ngày mai

Khi sạch bóng quân thù

Em dẫn anh về trên quê hương Nam bộ

Anh vốn không hay làm thơ

Nhưng lần trước gặp em đã có mấy câu đề tặng

Nay anh lại muốn mượn lời thơ nói đôi điều tâm sự

Nhưng em ơi, thương em nói mấy cũng không cùng.

Ngày 1.4.1969

5. Cũng không mấy ai biết rằng nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 -1997) đã làm thơ, và làm không ít. Bài thơ đầu tiên của Nguyễn Công Hoan chắc là bài này, in trên “An Nam tạp chí” số 32, 12-3-1932, họa lại một bài thơ của nhà thơ Tản Đà (1888- 1939):

Trách ông lỗi hẹn

An Nam tạp chí ra đời

Xa thời chẳng trách, gần thời trách chơi

Trách ai lên phố Hàng Khoai

Tỉnh Đông lỗi hẹn, cho người chờ mong

Chè hương đượm, rượu men nồng

Vắng ai, ai cũng cảm lòng kém vui

Vô duyên đâu có nực cười

Năm Ngọ Nam Sách, năm Mùi Lao Kay

Năm Thân lại có lần này

Tìm nhau khó gặp như ai với mình

Ngày xuân vì gió đa tình

Thăng Long thổi lại cho mình gặp ai

Ngày 28.2.1932

Nếu tính chất “trữ tình” quán xuyến cả bài thơ này, thì giọng trào phúng, hài hước lại có ở một loạt bài thơ khác viết tặng bạn bè. Ấy là các bài “Năm Dần mừng Tú Mỡ”, “Với Vũ Ngọc Phan”, “Kịch thơ” (về Vũ Ngọc Phan và vợ là Hằng Phương), “Vì sao?”, “Họa thơ Tú Mỡ”, “Tâm phúc với Đồ Phồn và Xích Điểu”, “Tìm đường ra” (kịch thơ về Tổng thống Mỹ Ních-xơn)…

Ta đọc thêm hai bài:

Với Vũ Ngọc Phan

Hằng Phương hỏi:

Vì sao sách chỉ đề tặng

Vũ Ngọc Phan?

Trách tôi không tặng chị

Nào tôi có lỗi đâu?

Vốn tôi biết từ lâu:

“Của anh ấy của chị”!

Ngày 13.4.1974

Vì sao?

Vì sao Tú Mỡ sống dai

Thì ra chuyện cũng khôi hài lắm thay.

Vốn Trời vẫn ngậm cay nuốt đắng,

Vì Tú ta đã chẳng kính Trời,

Gọi là “xừ” để mua cười,

Là “thằng xỏ lá” chao ơi, nhục nhằn!

Trời đập nậm xuống bàn chan chát,

Mắt trợn tròn, miệng ngoác đến tai,

Gọi Thiên Tào với tay sai:

“Cái tên Tú Mỡ là ai thế mày?”

Ta truyền lệnh cắt ngay hộ khẩu,

Bắt lên đây, ta nhậu với gan,

Cho chừa cái thói chửi càn,

Cho chừa cái thói chửi tràn cả ta!”

Thiên Tào vội điều tra, luống cuống,

Nhờ Xi-a đưa xuống địa cầu,

Hỏi thăm Hà Nội địa đầu

Hỏi cầu bằng giấy ở đâu để tìm.

Bắt thằng béo, kẹp kìm lòi mỡ,

Phớt lờ đi những đứa gầy còm.

Cho nên lọt lưới lọt hom

Khẳng khiu khô đét, Tú Nhom lại cười.

Thỉnh thoảng ốm, ốm chơi, ốm bỡn.

Vào Việt – Xô ngày phởn với thơ

Đêm khuya kéo nhị ì o

Để khoe Tú Mỡ cử cò tài ba!

|Vào cổng trước rồi ra cổng trước,

Vì xưa nay mực thước sống quen,

Phải đâu nhờ chuyến tàu lên

Vả còn đợi vé, khó chen hàng dài.

Chuyện là thế, ai ai cũng thích

Trời có oai, nhưng đếch thấy gì

Rồi đây dai dẳng lợm lì

Tú ta sống lậu, cười khì với con

Đêm 1.1.1975

HỒNG DIỆU/ VNCA