Tản văn dự thi – ĐI ĐỂ VỀ NHÀ MÌNH

Trên dãy Trường Sơn hùng vĩ, xã Lâm Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình như một bức tường thành án ngự nơi núi sâu, vực thẳm. Nơi đây có mịt mù sương khói của chốn thần tiên, vừa có mùi khét lẹt của vùng nắng lửa chạy dài theo những trận gió Lào thao thiết. Mảnh đất núi tiếp núi, rừng tiếp rừng, bồng bềnh trong tiếng cồng chiêng ngã nghiêng với những ché rượu cần làm cho con người quên đi hiện thực nhiều nhọc nhằn, bon chen.

Qua đến mùa hạ, mặt trời thành đám lửa rơi thẳng xuống núi rừng. Từng ngọn gió Lào thổi sàn sạt như những lưỡi dao vô hình cắt lên từng ngọn núi. Già làng Hoàng Bảo tâm sự: “Cái suối, con khe nước ngày càng trong nhưng da người lại chuyển sang màu gỗ lim. Nhưng đó là giá trị của sự gắn bó, sẻ chia và cắm rễ vào lòng đất”.

Đồng bào Bru – Vân Kiều có niềm tự hào sâu kín mà không phải ai cũng biết. Trên đất nước ta, có nhiều dân tộc nhưng chỉ duy nhất người Bru -Vân Kiều được mang họ Hồ. Trước cách mạng tháng Tám, người Bru Vân Kiều chỉ có tên, không có họ. Sau năm 1946, khi chuẩn bị tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên, đồng bào đã tự nguyện lấy họ Hồ của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm họ của mình để ghi vào thẻ cử tri. Theo các già làng cho biết, việc chọn họ Hồ không phải vì cảm tính, mà vì sự kính trọng, lòng tin yêu tuyệt đối với Bác Hồ. Mười một năm sau, ngày 16 tháng 6 năm 1957, trong lần Bác Hồ vào thăm Quảng Bình, các đại biểu người Bru – Vân Kiều gặp Người và xin phép mang họ Hồ. Bác đã gật đầu bằng ánh nhìn bao dung cùng niềm tin vào những con người giữa núi rừng xanh thẳm.

Từ đó, họ Hồ không chỉ là tên gọi mà là một cam kết. Cam kết sống tử tế, kiên cường, xứng đáng là con cháu Bác Hồ. Người ở bản làng Lâm Thuỷ, từ già làng tóc trắng như nước suối đến đứa trẻ đầu trần trên lưng đồi đều coi họ của mình như một phần máu xương và thành câu hát mỗi ngày: “Người Vân Kiều muôn lần ơn Bác, Bác ơi/Người Vân Kiều khắc ghi ơn Đảng suốt đời. Bác cho mình mang tên họ Hồ, mang cho mình cuộc sống yên vui/Cho nhân dân bình yên cuộc sống, yêu thương nhau đến cả núi rừng/Yêu cuộc đời, yêu đất nước, yêu quê hương”

* *

Vào tháng 11/2018, tôi nhận quyết định phân công lên Lâm Thuỷ công tác. Ngồi trên chiếc xe máy cũ kĩ, vượt qua 57 km đường rừng, lắc lư qua nhiều con đường ngoằn ngoèo, núi non trùng điệp, có những khi đi ngang qua con suối chảy xiết, gió quật ngang mặt, tôi mở to mắt vì choáng ngợp. Cảm giác đại ngàn như muốn nuốt chửng tất cả, thậm chí những ý nghĩ đời thường nhỏ nhoi bỗng vụt tắt khi đến nơi đây.

Lâm Thuỷ, bầu trời gần mái nhà hơn dưới xuôi. Mây không bay mà nằm im trên đỉnh núi như những giấc mơ ngủ quên. Mỗi sáng thức giấc, ánh sáng rơi qua tầng trảng rừng như những giọt mật. Từng giọt nắng vàng vỡ tung trên mặt đất. Những hàng cây lồ ô lắc lư theo gió vừa nhắc lại một điều xa xưa về trầm tích núi rừng vừa như hiển hiện linh hồn tổ tiên người Bru – Vân Kiều.

Ngày trước, đồng bào định cư và sinh sống bằng cách bảo vệ rừng già. Rừng là ngôi nhà vĩ đại chở che họ trong suốt chiều dài lịch sử. Dù thiếu cái ăn, thiếu cái mặc và thậm chí đói khổ, người Vân Kiều không bao giờ đốt rừng, chặt cây. Họ tin, trên mỗi gốc cây là một linh hồn tổ tiên, cha ông của họ đang trú ngụ.Vì thế họ sống chung với rừng và sống độc lập với thế giới bên ngoài bụi bặm.

Có những mùa khô, nước suối cạn đáy. Chúng tôi phải đào giếng ở khe suối, gánh từng can nước về trường phục vụ cho sinh hoạt và cuộc sống của hàng trăm học sinh ở nội trú. Nước rỉ ra từ những hòn đá, từng giọt một, như thể đại ngàn đang nhỏ máu để cung cấp mát lành cho dân bản và chúng tôi. Những chiếc xô móp méo, những bờ vai rám nắng, những đôi bàn tay lấm lem… tất cả trở thành ký ức không thể nào quên.

Tôi nhớ một buổi trưa hè, những hàng cây lồ ô đầu bản nổ đoàng đoàng như tiếng pháo. Mọi người ai cũng giật mình. Mặt đất đỏ au bụi bặm. Nhiệt độ tăng cao. Mấy đứa học trò chạy lon ton đến khu vực nội trú hồ hởi, nước trong cây lồ ô mát lắm thầy ạ. Em nghe già làng nói, nếu thân lồ ô nổ thì năm nay sẽ hạn to, bà con không có nước để uống rồi.

Đúng thế, nhiều ngày sau Lâm Thuỷ chỉ có nắng và gió Lào. Nắng như rưới xuống đất đai màu lửa. Nắng làm co quắp cây cối, mặt đất như cong lên vì nóng. Bọn trẻ đầu trần vẫn chạy choi choi ngoài đường, duy chỉ có đôi mắt các em như những giọt sướng lấp lánh trên núi rừng Lâm Thuỷ. Năm đó, hạn to, bản làng không có nước để sinh hoạt, hầu hết nhà nào cũng tìm về suối để tránh nóng. Những cây rì rì mọc ở suối lâu năm, rể cắm sâu vào đá trở nên bạc phếch. Già làng bảo tôi, nếu cây rì rì dọc suối chết thì bà con sẽ tìm nơi khác ở. Cây rì rì mọc trên đá, sống trên đá, da nhăn nheo sù sì tồn tại với Lâm Thuỷ hàng trăm năm qua không lý gì mất được. Cây còn thì bản còn. Cây mất thì bản mất. Năm đó dân làng lấy xẻng về suối vun gốc cho cây và dùng nhiều loại cây cỏ để đắp cho thân cây khỏi chết. Bà con nói với tôi, giữ rừng bắt đầu từ việc không đốt phá cây cối và bảo vệ bằng được cây rì rì. Bởi chúng giữ suối, giữ đất và giữ mạng sống con người vào mùa lũ.

Bà con là vậy nhưng những người dưới xuôi lên rừng mua đất, khai thác rừng bằng nhiều cách khác nhau. Rừng chảy máu. Con nai, con hoẵng, con heo cũng bỏ rừng mà đi. Tôi nhớ rất rõ, vào tháng 5/2020 Lâm Thuỷ hạn hán lịch sử và đến tháng 10 cùng năm ở  Quảng Bình có trận lũ lớn nhất trong hơn 100 năm qua. Hàng chục đàn trâu bò, lợn gà của bà con bị lũ cuốn phăng. Nhiều quả núi sập xuống đường 10, đường 16. Bà con bị chia cắt với miền xuôi. Cái đói, cái thiếu vật chất đã đành thêm cái đói điện, thiếu sóng điện thoại càng khổ. Bên căn nhà sàn liêu xiêu, người mẹ trẻ người Bru – Vân Kiều buồn bã với câu hát ru: “Rừng cho ta con nai/Ai đuổi nai đi/Rừng cho ta bầy cá/Ai đuổi cá đi/Rừng cho ta cây/Ai chặt cây/ lũ quét/Ai trả lại… cho ta”

***

Đêm ở Lâm Thủy là một thế giới khác. Khoảng sau 21 h trời trở lạnh, chúng tôi phải dùng chăn đắp dẫu mùa hè hay mùa đông. Mỗi khi đến mùa gió chướng, cái lạnh nơi đây thấm vào xương. Lạnh không phải từ ngoài xâm nhập vào mà lạnh từ cột sống toát ra.

Rừng như mái nhà che chở và ôm trọn yêu thương trong vòng tay thâm u và lặng yên. Nhiều lúc, tôi thấy những giấc mơ co rúm lại dưới tán cây, ngọn suối. Đêm ở rừng bao giờ cũng huyền hoặc đến lạ. Có khi chúng tôi nghe thấy tiếng thở của đất đai đại ngàn sau ngày giông bão. Mà hình như trên mái nhà sàn còn nghe được tiếng thì thầm của bà con vì nước con suối đã cạn, vì những cánh rừng đã bị người dưới xuôi mua hết. Tôi còn thấy lúc nửa đêm các già làng nhóm lửa, ngồi im như tượng đá. Họ đang tạc tượng cho những nhọc nhằn, lam lũ. Họ đang đằm mình vào sự cô đơn, trầm mặc.

Ở đây, chúng tôi hồn nhiên như cây cỏ. Sống giữa núi rừng mênh mông, tình người luôn toả sáng và có sợi dây vô hình kết nối không gì cưỡng lại được. Các anh bộ đội biên phòng Làng Ho, cán bộ địa phương, lực lượng kiểm lâm và giáo viên như người trong một nhà. Làm sao có thể quên hình ảnh đến giếng hai, bộ đội chia gạo cho dân bản, bà con tặng rau rừng cho thầy cô. Cái tình nơi rừng sâu không ồn ào, nhưng bền chặt như rễ cây xuyên đá.

Có lần, tôi theo đoàn công tác vào bản Bạch Đàn, cách trường 12km đường rừng, phải vượt qua 9 con suối dữ mới đến nơi. Cứ mỗi xuống bản, chúng tôi coi đó là một phép thử, mỗi ánh mắt trẻ con là niềm vui ngày mới. Phần lớn các em tâm sự với tôi: “Con suối rồi sẽ cạn. Cây rừng không còn nhiều. Con thú bỏ đi xa. Tụi em sau này cố gắng học cái chữ để học nghề, đi làm ở đồng bằng.”Những lời nói thật lòng ấy như củi lửa nhóm trong tim mọi người.

Đứng ở đèo 1001, nơi đây có thể thấy toàn bộ trung tâm huyện lỵ Lệ Thuỷ. Đỉnh đèo mây dựng trên đầu, gió reo bên tai. Mỗi lần vượt qua Cầu Khỉ, chiếc cầu lắt léo căng mình giữa hai bờ vực, tôi lại thấy lòng mình như được giải phóng. Có lẽ,  khi vượt qua những chiếc cầu khó đi nhất, người ta mới bước gần hơn đến với chính mình.

Nhưng điều thiêng không còn như xưa. Những cánh rừng nguyên sinh hầu như đã biến mất. Do đời sống còn nhiều vất vả, tâm hồn chân phác như bước chân con nai, bà con dân bản hầu hết đã bán rừng lại cho người dưới xuôi. Từ chỗ chủ rừng, các gia đình phải làm thuê cho người mua rừng. Đói nghèo lại hiển hiện như bóng ma bám riết. Già làng Hồ Say rưng rưng: “Hồi trước, đói thì vào rừng, khát thì xuống suối. Giờ rừng hết rồi.…” Tôi lặng im. Đau vì rừng chảy máu, đau vì điếu văn của rừng đã được viết lên bởi sự trong sáng, chân thật của bà con.

Tôi ở Lâm Thuỷ khá nhiều năm, rừng đã dạy tôi cách đứng vững, cách nghĩ suy và dạy tôi biết kiên cường trong im lặng. Nhiều đêm, tôi trò chuyện với chính mình bằng những giọt mồ hôi, nước mắt của người Bru – Vân Kiều. Tôi lớn lên bằng lòng kiêu hãnh của núi rừng và sự rộng mở của núi thiêng. Có lúc tôi lại đầm mình vào tiếng cồng chiêng và lời khấn của già làng khi mùa lúa đến: “Giữa núi non lởm chởm con chưa bước chân đến, con hãy đi. Đi như con nai, con hươu. Con đi để biết rừng còn nhiều ẩn ức. Đi để biết con đang ở đâu. Đi để về nhà mình”.

   Ngô Mậu Tình