Ranh giới – Truyện ngắn của Hồ Kiên Giang

“Chú ơi, 20 giờ hôm nay Đài phát sóng phim tài liệu “Ranh giới”, chú mở ti vi xem nhé!”. Vừa ăn cơm chiều xong, ông Ngọc nhận được tin nhắn vậy của đạo diễn Trung Kiên. Kể ra cũng lâu, từ hồi tháng mười năm ngoái, ròng rã hai tuần ông theo ê kíp của Đài Truyền hình tỉnh lên biên giới, sang cả Campuchia để gặp nhân chứng, ghi hình, phỏng vấn. Tuy mệt mỏi nhưng ông vui vì mấy chục năm mới trở lại chiến trường xưa – nơi bao đồng đội ông vĩnh viễn nằm lại đâu đó trong các cánh rừng già, dưới lòng suối mùa khô cạn nước trơ đáy lồ lộ những khúc xương người. Cũng trên mảnh đất này đã thấm máu ông trong một lần bị Pôn Pốt phục kích. Ông kêu vợ dọn dẹp, rửa chén đũa để chút nữa cùng ông coi phim. Ông cũng gọi điện thoại cho vợ chồng thằng con trai và đứa con gái lập nghiệp trên tỉnh đón xem.

Sau bản tin thời tiết đến phim tài liệu, ông bà Ngọc ngồi trên ghế sa-lông chăm chú theo dõi. Mở đầu phim là hình ảnh và lời bình về cô Thị Sên đi xuống bến sông Vĩnh Tế ngồi lặng yên dưới tán cây bạch đàn, hướng mắt qua bên kia biên giới. Mỗi lần như vậy, nước mắt cô rịn ra lăn dài trên gò má rám đen. Bởi ngỡ tưởng nỗi đau cô cố quên giờ bừng thức làm tim nhói buốt. Dù hơn một phần ba thế kỷ trôi qua sau ngày được bộ đội Việt Nam giải thoát, cưu mang, sống trong tình thương và sự giúp đỡ của người dân ấp Trà Phô, cô Sên dần quên bao biến cố trong đời nhưng khi một mình đối diện với ký ức, nó trỗi dậy hiển hiện vẹn nguyên trước mắt. Hàng xóm nhìn thấy thương cảm, động viên nhưng không thể xóa nhòa nỗi ám ảnh trong cô.

Đó là sau ngày Thủ đô Phnôm Pênh mới giải phóng, mọi người vui mừng cùng nhau xây dựng cuộc sống mới nhưng tàn quân Khmer Đỏ còn lẩn khuất đâu đó trong rừng sâu, trên núi cao. Chúng không chỉ áp dụng các thủ đoạn tàn bạo mà còn tìm đủ mọi cách hòng đưa đất nước Chùa Tháp hoang tàn trở lại năm tháng dưới bàn tay đẫm máu, dã tâm diệt chủng của Pôn Pốt Iêng-xa-ri. Lúc ấy cô Sên chín tuổi, trên cô có anh trai mười hai tuổi. Ba má cô vừa dạy học vừa làm ruộng dưới chân núi Cô-run của tỉnh Pu-sát. Vùng này nhiều núi cao, vực thẳm và rừng hoang, nước độc. Giống như các gia đình khác, nhà cô Sên cất kiểu nhà sàn vừa tránh thú dữ vừa là nơi nấu ăn, nghỉ trưa mát mẻ, cũng để giữ trâu bò sau một ngày thả rong. Những ngôi nhà sàn không cất liền nhau mà có một khoảng trống trồng thốt nốt ủ rượu và để cô đặc nấu đường. Quanh núi hay trên các con đường dẫn qua phum khác có nhiều hoa rum-dul. Vào tháng tư hàng năm, khi hoa nở rộ, mùi thơm ngào ngạt lan tỏa phủ tràn cánh đồng dưới chân núi Cô-run như loài thuốc kích thích lúa oằn bông trĩu hạt. Đó cũng là lúc má cô hái hoa chưng cất làm dầu thơm và trị bệnh. Thỉnh thoảng, ba hái trái rum-dul chín màu đỏ đen cho cô ăn đến say mê bởi vị vừa chua vừa ngọt.

Một sáng đầy sương, mặt trời chưa kịp nhô lên khỏi đỉnh núi Cô-run, năm tên lính Pôn Pốt chưa đến hai mươi tuổi, vai mang súng AK báng gấp xộc vô nhà cô Sên. Chúng bắt trói cả nhà cô kéo ra sân. Đầu tiên, tên cầm đầu xé quần áo má cô rồi hãm hiếp. Trong khi đó, mấy tên còn lại bắt ba và hai anh em cô phải nhìn cảnh tượng ấy trong tiếng cười hả hê của chúng. Má cô càng chống cự thì chúng càng hưng phấn. Mỗi lần má cô đau đớn khóc thành tiếng là bị chúng bạt tai. Ba cô dập đầu cầu xin đến chảy máu nhưng chúng vẫn dửng dưng. Cứ thế, năm tên thay nhau thỏa mãn dục vọng đến khi má cô ngất lịm.

– Trước lúc rời đi, chúng dùng búa đập đầu ba tôi cho tới chết!

Giọng cô Sên nghẹn lại. Tưởng má cô chết, chúng dẫn hai anh em cô cắt rừng vô trại tập trung của Khmer Đỏ để huấn luyện trở thành những tên lính sẵn sàng giết hại đồng bào, thậm chí là người thân của mình. Vậy là, hai anh em cô Sên cùng nhiều đứa trẻ khác phải trải qua sự hành hạ tinh thần như bị bắt lao động khổ sai không khác nô lệ, học cách cầm súng giết người, bị đày đi khắp các vùng ở Campuchia từ trại này sang trại khác. Nhưng điều đó không gây cho cô sang chấn tâm lý nặng nề bằng chứng kiến nhiều kiểu tra tấn dã man, giết người tàn độc nếu ai chống đối quy định hà khắc của Ăng-ka.

Thông thường, ê kíp sản xuất chương trình sẽ sử dụng tư liệu để chứng minh nhưng khi phát sóng trên ti vi đã minh họa nội dung này bằng hình ảnh trong phim tài liệu “The Missing Picture” của đạo diễn người Campuchia Rithy Panh về hậu quả của nạn diệt chủng với người dân và xã hội Campuchia. Bà Ngọc quay sang nói với chồng:

– Pôn Pốt tàn ác quá. Tội nghiệp hai đứa nhỏ đã mồ côi còn bị chúng bắt hành hạ nữa!

Ông Ngọc lắc đầu:

– Không. Bà Thị Mết – má cô Sên chưa chết.

– Sao ông biết?

– Bà coi tiếp đi, đoạn này tới tôi nè.

Trên ti vi, ông Ngọc mặc bộ quân phục cũ, tay cầm cây tre đi trên con đường mòn dẫn vào núi Cô-run. Sau phần giới thiệu về ông Ngọc – một cán bộ làm công tác binh vận của Sư đoàn 339 của Việt Nam sang làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia là hình ảnh trắng đen tái hiện mấy chục năm trước. Đó là một chiều tháng 4 năm 1986, Tổ vận động của Ngọc hành quân vào phum dưới chân núi Cô-run thì gặp bà Thị Mết sống thui thủi một mình trong ngôi nhà sàn cũ kỹ. Tổ vận động xin đóng quân ở nhà bà. Hàng ngày, một mình bà vào ra hương khói cho chồng. Bà ít tiếp chuyện với các anh, cũng không mở lời nhờ vả việc gì. Mỗi khi các anh phụ bà quét dọn vệ sinh, chẻ củi, gánh nước… thì bà tự tách ra đứng lặng lẽ quan sát. Đôi lúc bà ngồi trầm tư ngó mông lung, ánh mắt như vô hồn hướng về phía cánh rừng già chỉ có lối mòn độc đạo sặc mùi ẩm mốc. Từ trong hai khóe mắt trắng đục của bà, những giọt nước rịn ra, lăn dài trên gò má đầy nếp nhăn rơi xuống bàn tay thô ráp, chai sần đang chéo trên gối. Bà khóc không thành tiếng, thỉnh thoảng nấc lên như có gì đang chẹn cứng ở cổ. Ngọc thấy thương người phụ nữ già trước tuổi bốn mươi hàng ngày đối diện cô đơn khi chồng bị giết hại và nỗi mong chờ hai đứa con bị Pôn Pốt bắt đi giờ không biết sống chết ra sao. Thông tin đó có từ mấy người xung quanh sau khi Ngọc tìm hiểu nhưng anh muốn chính bà nói ra để ít nhiều trong bà còn chút niềm tin với những người con đất Việt sẵn sàng xa quê vì nghĩa lớn. Dù niềm tin ấy bãng lãng như sương sớm dưới chân núi Cô-run mau tan lúc bình minh, mong manh như tơ nhện giăng trong góc nhà mà mỗi cơn gió thổi qua sẽ cuốn đi mất.

– Ủa, bà đó là má cô Sên hả? – Bà Ngọc bất giác hỏi chồng.

– Đâu phải. Người đàn bà đó ở phum Cô-run, do ê kíp mướn diễn lại chuyện xưa. Bà không thấy trên mà ti vi người ta để “Hình ảnh minh họa” sao? Mà bà thấy tôi trên phim trẻ đẹp không? Ha ha… Là diễn viên tái hiện đó.

Bà Ngọc liếc yêu chồng, mắt hướng lên ti vi đã chuyển qua cảnh đêm, các anh bộ đội Việt Nam đang dọn chén đũa trên chiếc chiếu trải ở hiên nhà sàn kèm theo thuyết minh rằng: Hôm nay, Ngọc bẫy được con gà rừng nặng hơn ký, anh em làm thịt nấu cháo mời bà Thị Mết cùng ăn. Tổ công tác ở nhà bà hơn tuần, dù ít nói chuyện với nhau nhưng những việc làm của các anh tạo thiện cảm với bà. Trong lúc ăn cháo, Ngọc tranh thủ gợi chuyện, tất nhiên bằng tiếng Khmer. Vậy nên, trên màn hình phải phụ đề tiếng Việt:

– Từ ngày hai đứa con bị Pôn Pốt bắt đi bà có gặp họ không? – Ngọc hỏi.

– Không – Bà Thị Mết lắc đầu.

– Vậy sao bà biết con gái còn sống?

– Tôi viết cho con mấy chữ giấu dưới gốc cây rum-dul già cạnh đường mòn. Chỗ này nó từng đánh ký hiệu hai lần. Đây là quy ước riêng của nhà tôi từ khi Khmer Đỏ “dậy sóng” để nếu có bất trắc gì thì cũng biết tin còn sống ở trên đời. Có lẽ hôm đó Pôn Pốt dẫn nó đi đốn củi nên nó phát hiện.

– Sao đó bà có liên lạc với cô Sên nữa không?

Bà gật gật đầu.

– Bà có khuyên cô về không? – Ngọc hỏi tiếp.

– Có. Nhưng nó không dám về đâu! – Mắt bà cụp xuống trĩu nặng.

– Nhà mình mình về, sao lại không dám?

– Nó sợ bị Pôn Pốt biết nó trốn sẽ giết chết.

– Bà có tin bộ đội Việt Nam không?

– Tôi tin. Nhưng… việc này… lớn lắm.

– Bà vô rừng hẹn với cô là tôi gặp, địa điểm ở đâu cũng được.

Bà nhìn Ngọc nửa tin nửa ngờ, thở dài:

– Không được đâu, nguy hiểm quá. Nếu Pôn Pốt thấy chú sẽ giết liền, bọn chúng ác lắm. Con Sên nhắn với tôi là anh nó cùng mấy đứa nữa tính bỏ trốn, ai ngờ có thằng phản bội báo tin, vậy là chúng bắt hết trói lại, đào hố… chôn sống.

Giọng bà nghẹn lại, nước mắt ứa ra. Ngọc buông đũa, nắm bàn tay nhăn nheo của bà, an ủi:

– Bà yên tâm. Chúng tôi sẽ cố gắng cứu con bà đưa về an toàn.

Nói vậy nhưng hơn tháng sau mới liên lạc được với cô Sên. Sau khi ấn định thời gian, mờ sáng, Ngọc vượt suối theo đường mòn vào rừng. Theo sau anh là hai chiến sĩ trong Tổ công tác âm thầm bảo vệ và sẵn sàng chiến đấu nếu có bất trắc. Mất hơn hai giờ Ngọc mới tới điểm hẹn. Đó là vườn cây rum-dul đang thời kỳ nở hoa tỏa hương ngọt ngào. Xung quanh vắng vẻ, tịnh không một bóng người. Chốc chốc có chú chim vỗ cánh vút lên không, ném lại những tiếng kêu thảng thốt. Ngọc biết nguyên nhân do hai chiến sĩ đạp lên lá khô làm chim giật mình, dù trước đó anh dặn phải tuyệt đối bí mật. Ngọc tựa lưng vào phiếm đá, đầu váng vấp hàng trăm suy diễn về cuộc gặp hôm nay. Có thể lát nữa đây và mãi mãi anh không còn gặp lại đồng đội, không cảm nhận nỗi đau đáu chờ con của bà Thị Mết. Cũng có thể anh vẹn nguyên trở về trong niềm vui chiến thắng. Dẫu thế nào anh vẫn chấp nhận và sẵn sàng dấn bước như bảy năm trước anh tình nguyện nhập ngũ, trực tiếp chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam rồi tham gia đoàn quân giúp bạn giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh. Bây giờ, má cô Sên cắn răng chịu đựng con gái phục vụ bọn Pôn Pốt đã giết cha và anh, làm nhục má mình. Ngọc lại nhớ những lần thủ trưởng đơn vị quán triệt trước khi sang đất bạn, rằng ngoài chiến đấu tiêu diệt tàn quân còn lẩn trốn phải giải cứu người dân bị nhốt trong các trại tập trung, chia bớt lương thực, hỗ trợ thuốc men…, thì hãy coi người dân Campuchia như người thân của mình bởi họ là nạn nhân của diệt chủng. Ngọc đã chứng kiến sự khốn khổ kiệt cùng của người dân mà trong tưởng tượng anh chưa từng xuất hiện trước khi đặt chân lên đất nước Chùa Tháp. Vậy nên lúc này đây, giữa cái chết và sự sống không rõ ràng ranh giới, phân định rạch ròi, Ngọc vẫn bình tâm chờ đợi.

– Vậy ông có gặp cô Sên không? – Bà Ngọc sốt ruột hỏi chồng.

– Có chứ. Khoảng trưa, khi mặt trời lên gần tới đỉnh đầu hắt vài tia nắng hiếm hoi qua tán lá rum-dul với những dây leo chằng chịt, tôi định quay về thì có tiếng hô sắc lẽm như dao cắt vang lên sau lưng: “Đứng lại!”. Tiếp đó là tiếng bước chân gấp gáp đạp xào xạc trên lá khô. Tôi ngoái nhìn lại thấy tên lính Pôn Pốt lách mình khỏi tảng đá chắn đứng, tay lăm lăm khẩu súng trường tiến công Type 56 chĩa thẳng vào tôi. Da nó đen như lọ nồi, mặt căng ra, mắt nhướng lên hết cỡ. Nó mở khóa an toàn khẩu súng, lên đạn. Tiếng kêu khô khốc va vào đá dội ngược rờn rợn. Tôi mỉm cười nói dù nó không hỏi, nói bằng tiếng Khmer rằng tôi vô đây tìm cô Sên. Chưa nói hết câu thì tên lính Pôn Pốt nhảy thoăn thoắt qua mấy tảng đá như con khỉ rừng, chớp mắt đứng đối diện với tôi chừng năm mét. Nó hất hàm kêu tôi giở áo lên, xoay một vòng coi có nhét súng ở lưng quần. Tôi hiểu ý làm theo. Nó gật gật đầu khi thấy tôi chẳng đem theo vũ khí nào, tuy vậy họng súng của nó vẫn không rời tôi – mục tiêu duy nhất trong vườn hoa rum-dul âm u này. Nó nhìn tôi dò xét một lúc rồi quàng súng qua vai, vỗ tay ba cái làm ám hiệu. Sau tảng đá chỗ tên lính Pôn Pốt lúc nãy, Thị Sên từ từ xuất hiện, bước chậm chạp về phía hai người. Cô Sên đứng nép sau lưng tên lính, lấm lét nhìn tôi. Tôi nói má cô nhờ tôi đưa cô về nhưng cô nói nếu bọn chúng biết sẽ giết tôi!

Ông Ngọc nói một hơi rồi thở dài, mắt nhìn hình mình đang phát biểu trên ti vi chứ không phải nhân vật đóng thế:

– Tôi nói chân tình với cô Sên, rằng bộ đội Việt Nam sang đây giúp Campuchia thoát họa diệt chủng của Pôn Pốt Iêng-xa-ri. Vì vậy, nhiều đồng đội tôi đã nằm lại trên mảnh đất này. Chúng tôi luôn cầu mong xứ sở Chùa Tháp thống nhất, bình yên để trở về quê hương với người thân. Cũng như cô muốn sống bên má để bà không phải lặng lẽ khóc, buồn nỗi buồn biết nói, đau nỗi đau chạm vào nhức buốt. Cô không nên phục vụ bọn quỷ dữ đã giết cha và anh, tàn sát dân tộc mình. Hôm nay cô trốn đến đây thì không thể trở lại chịu cảnh chui rút trong rừng sâu hoặc sẽ bị giết chết vì dám rời khỏi trại tập trung. Cô Sên hiểu lời tôi nên gật đầu lia lịa, bờ vai run run theo tiếng nấc. Tên lính kéo tay áo vừa lau nước mắt cho cô vừa nói lí nhí gì đó. Tôi bước tới, tên lính kéo cô lùi về sau. Khi dáng hai người lọt khỏi điểm cao mỏm đá thì… đoàng. Một viên đạn từ phía sau tên lính bay thẳng vào đầu làm hắn đổ gục. Lập tức, tôi kéo cô ngồi thụp xuống, tựa lưng vô tảng đá. Cũng lúc ấy, hai chiến sĩ đi cùng tôi ném lựu đạn theo hướng xuất phát tiếng súng. Lợi dụng khói đạn lởn vởn, tôi kéo cô Sên chạy nhanh về phía đồng đội.

Ông Ngọc nói xong thì một đoạn nhạc trỗi lên trên hình ảnh núi Cô-run đắm mình trong nắng hoàng hôn cùng bảng chữ: “Hết tập 1”.

*

*        *

Cả ngày hôm nay bà Ngọc cứ hỏi chồng xoay quanh câu chuyện bộ phim tài liệu “Ranh giới”. Rằng ông có gặp bà Mết không, cô Sên gặp má chắc mừng lắm hả, má con họ bây giờ ra sao… Ông Ngọc không trả lời, chỉ cười nói:

– Tôi nói trước là bà biết nội dung rồi đâu còn hồi hộp nữa, mất cảm hứng hết trơn hết trọi. Tối nay bà coi đi, hết hồn luôn đó.

Giờ phát sóng cũng tới, vợ chồng ông Ngọc ngồi trước ti vi xem tập 2. Mở đầu phim là “Hình ảnh minh họa” trắng đen về Tổ công tác cùng cô Sên đi khắp nhà kêu lớn nhưng không thấy bà Thị Mết. Trước khi đi, Ngọc đã dặn bà an tâm chờ ở nhà, chắc chắn sẽ đưa cô về, vậy giờ bà đi đâu, hay bị Pôn Pốt bắt? Chuyện này không thể vì khu vực núi Cô-run mấy năm nay không còn dấu vết tàn quân, bộ đội Việt Nam cùng lực lượng của bạn tuần tra kiểm soát cả ngày lẫn đêm để bảo vệ an toàn cho người dân. Có lẽ bà qua nhà hàng xóm? Vậy là chia nhau đến từng nhà hỏi thăm nhưng mọi người đều không biết. Chắc bà tới các đơn vị bộ đội đóng quân gần đây? Lại tiếp tục dò la nhưng chẳng tin tức gì. Có người nhận định bà đi hái rau hoặc bắt cá. Leo lên núi Cô-run không thấy, chạy ra suối Piêu-rơn sau nhà cũng chả thấy bóng dáng bà. Điểm đến cuối cùng là ra mộ của ba cô Sên nhưng tuyệt nhiên hoang vắng, không một dấu vết chứng tỏ có người tới đây. Cô Sên ngồi sụp bên mộ ba, kể rằng từ khi Khmer Đỏ thực hành chế độ độc tài phát-xít thì hầu như ai cũng chạy loạn thoát thân, kiếm nơi an toàn ẩn náo, vậy nên họ hàng ruột thịt tứ tán. Những người dân như gia đình cô phải dựa vào nhau trốn tránh bọn Pôn Pốt lùng sục bắt lao động khổ sai hoặc giết chết nếu chống cự.

Cả ngày kiếm không gặp bà Thị Mết, mọi người mệt mỏi ngồi nghỉ trên sàn nhà, chả ai nói gì. Bởi trong đầu họ đều có cùng câu hỏi mà không thể trả lời là bà Mết đi đâu? Thôi thì cứ cho rằng bà đi đâu đó chiều tối sẽ về. Một ngày… Hai ngày… Ba ngày lặng lẽ trôi qua nhưng thông tin về bà vẫn bặt tăm. Đến chiều ngày thứ năm người dân báo tin phát hiện xác một người phụ nữ chết trôi trên suối Piêu-rơn, Tổ công tác cùng cô Sên vội vã ra suối. Con suối này bắt nguồn từ núi Kan-chay, muốn lên đó phải leo qua hai ngọn núi nữa. Thường thì mùa mưa, nước suối dâng cao đến vai người lớn, còn bây giờ mới tháng tư nên nước chưa tới đầu gối. Lúc mọi người đến nơi nhìn thấy xác một phụ nữ trần truồng nằm ngửa trên tảng đá cặp bờ suối, khắp cơ thể đầy sẹo vít. Ngoài những chỗ thịt thâm đen còn có vết dài hở thịt tới xương như dao cắt. Mùi thối xộc vô mũi tởm lợm muốn ói.

Bất chợt, điện thoại di động của ông Ngọc đổ chuông. Nhìn danh bạ con trai đang gọi, ông bấm máy:

– A lô, có chuyện gì không con?

– Con đang coi phim về ba nè. Mà ba ơi, sao người ta làm mờ hình đoạn này vậy?

– Đó là hình chụp nhưng kiểu giết người quá khủng khiếp, chắc sợ khán giả xem truyền hình ám ảnh nên họ làm mờ đó con – Giọng ông Ngọc chậm rãi – Trước khi qua Campuchia, ba nghe mấy anh đi trước nhiều lần kể các hình thức giết hại dân thường Việt Nam cực kỳ man rợ của Pôn Pốt lúc đánh chiếm Ba Chúc. Ám ảnh nhất là với phụ nữ, sau khi bị chúng bắt trói rồi thay nhau hãm hiếp còn lấy tre vạt nhọn thọc vô âm đạo cho tới chết. Ba chỉ nghe kể thôi đã cảm giác nhồn nhột đâu đó phần dưới cơ thể. Còn bây giờ hình ảnh ấy ngay trước mắt làm ba không dám nhìn. Ngay lúc đó, cô Sên cũng quay mặt lắc đầu, nói không phải má cô! Ba nhận định, có lẽ người phụ nữ này bị nhóm tàn quân Pôn Pốt lẩn trốn trên núi Kan-chay bắt hãm hiếp, đánh đập tới chết rồi thả xuống suối trôi tới đây. Thi thể chưa phân hủy hết chắc chỉ vài ngày trước. Ba chợt nghĩ, hay bà Thị Mết cũng bị chúng bắt rồi? Vậy là mọi người men theo bờ suối Piêu-rơn về phía hạ nguồn. Thôi, con coi tiếp đi.

Trên ti vi, flycam ghi lại hình ảnh tái hiện đoàn người lần ven bờ suối Piêu-rơn. Thỉnh thoảng có người té vì trượt chân trên đá. Đi khoảng trăm mét, cô Sên phát hiện một chiếc vòng đeo tay bằng vàng chạm khắc tinh xảo. Cầm ngắm nghía một lúc cô Sên xác nhận chiếc vòng này được ba cô đặt thợ làm tặng má trong ngày cưới, sao nó ở chỗ này? Không lẽ má cô bị lính Pôn Pốt bắt, hành hạ, thả xuống suối trôi về cuối nguồn ra sông Bác-sác? Ngọc như hiểu suy nghĩ của cô Sên, vội động viên rằng, nếu má cô bị Khmer Đỏ bắt thì chúng lột hết vòng vàng rồi. Có thể bà ra suối bắt cá vô tình làm rớt chiếc vòng này hoặc bà biết tin họ hàng đâu đó nên đã đi thăm. Tuy nói vậy nhưng sự mất tích của bà Mết có nhiều nghi vấn không thể giải thích rõ ràng.

Đêm ấy, Ngọc nói sẽ gửi cô Sên cho Trạm Quân y của bộ đội Việt Nam đóng trên phum Sinh-tà-phíp để học nghề băng bó, cứu thương, không thể ở cùng Tổ công tác vì nguy hiểm. Tuy cô mới mười hai tuổi nhưng có thể làm những việc nhẹ nhàng trong bệnh viện dã chiến. Mặt khác, các anh tiếp tục tìm kiếm bà Mết, khi nào có tin tức sẽ thông báo cho cô biết. Cô ngồi im lặng, gật gật đầu, chấp nhận sự sắp xếp của anh. Đôi mắt cô lấp lánh niềm tin vào hướng đi tốt đẹp phía trước, nhất là không phải lúc nào cũng nơm nớp sợ bị Pôn Pốt bắt.

Sáng sớm hôm sau, Ngọc dẫn cô Sên đến Trạm Quân y, bàn giao cho đơn vị tiếp nhận xong anh trở về Tổ công tác. Lúc cách chân núi Cô-run khoảng trăm mét thì Ngọc phát hiện ba tên lính Pôn Pốt đang kéo người đàn bà bị trói quặt tay sau lưng đi như chạy trên đường mòn về hướng núi Kan-chay. Dưới ánh sáng cuối ngày nhập nhoạng, anh không nhìn rõ mặt nhưng nhận ra áo tầm-vông và xà-rông bạc màu bà Thị Mết mặc hàng ngày. Nhưng hầu như trang phục của phụ nữ Campuchia anh từng gặp đều như vậy, nhất là đang thời chiến tranh loạn lạc. Cũng có thể nhiều ngày tìm kiếm không gặp nên hình ảnh bà Mết chưa thoát khỏi tâm trí anh. Ngọc rón rén theo chúng định giải thoát người đàn bà nhưng được một đoạn thì bọn chúng và bà mất hút sau rừng cây rậm rạp như chưa từng xuất hiện. Anh cố dỏng tai nghe ngóng nhưng chẳng có tiếng động nào trên lá khô. Anh thở dài quay lại đường cũ về Tổ công tác.

Khi bóng dáng Ngọc qua khỏi khung hình thì một đoạn nhạc trỗi lên trên ảnh con suối Piêu-rơn ngoằn ngoèo và bảng chữ: “Hết tập 2”. Bà Ngọc tặc lưỡi:

– Phim đang hay lại hết!

Ông Ngọc cười:

– Chưa mà, mai chiếu tiếp. Một tập gần ba chục phút chứ ít ỏi gì đâu. Bà coi không mệt chứ ê kíp làm phim này cực khổ lắm.

– Mà tập này tôi không thấy ông vậy?

– Có phim tài liệu “The Missing Picture” minh họa và người đóng thế tôi rồi, phải để dành phần sau nữa chứ! – Dứt lời, ông Ngọc cười bí hiểm.

*

*        *

Mở đầu tập 3 phim tài liệu “Ranh giới” là diễn biến trận đánh tan căn cứ tàn quân Pôn Pốt trên núi Kan-chay do bộ đội Việt Nam phối hợp cùng lực lượng của bạn tiến hành. Tin vui ấy lan nhanh đến Tổ công tác, lập tức, Ngọc cắt rừng đến Trạm Quân y ở Sinh-tà-phíp định gặp Sên nhưng cô gái được đưa về Việt Nam học chữ từ ba năm trước. Cũng ngần ấy thời gian Ngọc chưa tới thăm Sên bởi anh không muốn cô khóc vì tin tức về má vẫn bặt tăm. Chẳng ai biết bà Mết ở đâu, còn sống hay đã chết. Có một chuyện làm anh phấn khởi là sau khi về Việt Nam, Sên được gia đình người Khmer ở Trà Phô nhận làm con nuôi. Vùng này hồi Khmer Đỏ xua quân vượt biên giới cướp bóc, tàn sát đồng bào, người dân di tản về Rạch Giá lánh nạn. Khi bộ đội ta đánh chúng rút chạy, làng xóm bình yên, bà con mới trở lại cất nhà, khai hoang sạ lúa, ổn định cuộc sống. Năm nay Sên mười sáu tuổi, chắc đọc thông viết thạo tiếng Việt rồi.

Về Tổ công tác ba ngày, Ngọc nhận tin quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp bạn Campuchia thoát họa diệt chủng, tái thiết đất nước, chuẩn bị rời xứ Chùa Tháp về quê mẹ. Các anh mừng rưng rưng nước mắt. Vậy là đã mười năm xa quê vì nghĩa lớn, những người con đất Việt được trở về làng cũ bên người thân, nhưng biết bao chàng trai trẻ vĩnh viễn nằm lại xứ sở hoa rum-dul. Trong đó có bao đồng đội đã từng cùng Ngọc hành quân vượt rừng lội suối giờ không chứng kiến niềm vui này. Người dân ở núi Cô-run khóc rưng rức, bịnh rịn khi chia tay “Bộ đội nhà Phật” đã cứu họ không chết tức tưởi dưới bàn tay đẫm máu của Khmer Đỏ, đã hướng dẫn họ trồng lúa, rau cải ngay trên quê nhà quá nhiều đau thương, chết chóc.

– Buổi sáng tiễn đưa bộ đội về nước, tôi dõi tìm trong dòng người đưa tiễn có hình dáng bà Mết nhưng tuyệt nhiên không thấy. Lẽ nào bà bị Pôn Pốt giết chết quăng xác đâu đó trên sông suối hay thủ tiêu cùng những người dân khác trong những cánh rừng già? Tôi gạt bỏ câu hỏi lởn vởn không thể trả lời. Giờ nhiệm vụ đã xong, phải về quê thôi. Những ngày tháng sau đó, khi rời quân ngũ trở lại đời thường, mỗi lần nhớ lại thời chiến đấu ở Campuchia, tôi không thể quên câu chuyện về má con cô Sên. Lúc Đài Truyền hình tìm kiếm cán bộ, chiến sĩ từng làm nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp bạn đã kết nối tôi gặp lại cô Sên bên bờ kênh Vĩnh Tế.

Ông Ngọc phát biểu trên ti vi như vậy. Tiếp đó là bối cảnh trước nhà cô Sên thực hiện cuộc trò chuyện ngắn giữa ông Ngọc và cô. Với người cựu chiến binh này, kêu đánh trận thì lập tức xung phong nhưng trước ống kính lại dè chừng. Cũng phải, đó vốn dĩ không phải sở trường của ông nhưng để họ ghi lại những gì một thời chứng kiến gợi cho ông nhiều xúc cảm bồi hồi. Ông nhớ lúc mới gặp, cô Sên nhận ra ông liền, dù tóc có bạc, da có nhăn nhưng thần thái dứt khoát, khí chất hoạt bát vẫn vậy. Ông nhìn người đàn bà khoảng năm mươi tuổi, mập mạp chứ không ốm yếu như thể không đứng nổi như mấy chục năm trước. Cô không mặc xà-rông truyền thống mà gọn gàng trong bộ bà ba màu xanh nhạt, khăn rằn sọc xanh vắt qua vai che cái cổ trắng ngần. Họ bố trí cái bàn tròn cho ông ngồi trò chuyện với cô Sên theo kịch bản đã chuẩn bị sẵn. Cả ê kíp với máy quay phim, phản quang, mic-rô làm Ngọc lúng túng. Đạo diễn Trung Kiên thấy vậy nói nhỏ với ông:

– Chú cứ tự nhiên, thoải mái nghe, coi như không có tụi con. Chú có thể hỏi thêm những câu ngoài kịch bản, lúc dựng phim tụi con sẽ cắt gọt lại.

Ông Ngọc gật gật đầu. Đoạn quay qua cô Sên, hắng giọng hỏi:

– Từ khi bộ đội đưa về Việt Nam, cô đã làm gì?

– Tôi được đi học chữ, học nghề đương đệm, giỏ bàng – Cô Sên nói chậm rãi, rõ ràng – Sau đó thì lấy chồng. Chồng tôi mần giỏi nên cuộc sống không thiếu gì hết. Tôi có một con trai và một con gái đi học hết lớp làm việc cho Nhà nước. Giờ tụi nó đã lấy vợ lấy chồng, sanh con đẻ cái.

– Cô có thông tin gì về bà Mết không?

Cô Sên lắc đầu, mắt rưng rưng:

– Có lẽ… tôi sẽ không bao giờ… gặp lại má tôi nữa!

– Cô có tính về quê hỏi thăm tin tức về má cô không?

Cô Sên lại lắc đầu, mắt hướng về phía biên giới, giọng dứt khoát:

– Không đâu. Gần đây, tôi coi ti vi thấy tình hình giữa Campuchia và Thái Lan căng thẳng, nhiều dân thường ở biên giới bị thương và thiệt mạng. Nếu về đó lỡ chiến tranh xảy ra tôi không biết chạy đâu. Mấy chục năm trước, tôi được bộ đội Việt Nam cứu sống một lần rồi nên đâu thể tự đâm đầu vô chỗ chết nữa. Ở đây tôi có chồng con, các cháu nội ngoại, có nhà cửa đàng hoàng và hàng xóm quen thân. Cuộc sống yên bình vậy còn đi làm chi nữa. Nếu hồi đó, má tôi không bị Pôn Pốt giết chết thì bây giờ đã già yếu, có thể không còn sống nữa. Họ hàng bên đó giờ chẳng còn ai, tôi về để làm gì!

Ông Ngọc quay sang nói với vợ:

– Bữa quay phim tôi với cô Sên nói chuyện nhiều lắm nhưng khi phát sóng họ cắt ngắn lại, bớt dài dòng đó bà.

Khi ấy, trên ti vi là hình ảnh flycam bay dọc đường biên vàng rực lúa chín dưới nắng chiều tà trên nền một đoạn nhạc ngũ âm cùng lời bình: “Biên giới Việt Nam và Campuchia chỉ cách con sông nhỏ nhưng mấy chục năm qua cô Sên không về bản quán. Một ranh giới ngắn thôi nhưng cô chẳng thể bước qua. Cô đã sống an yên trên mảnh đất này – nơi cô luôn xem là quê hương thứ hai trong đời”. Giọng nữ đọc thuyết minh vừa dứt cũng là lúc màn hình ti vi hiện tên và vai trò của từng thành viên trong ê kíp thực hiện phim tài liệu “Ranh giới”./.

 

Hồ Kiên Giang