Nghe mưa kể chuyện rừng – Tản văn của Võ Đình Duy

Mành mưa sà vào lòng phố thị. Mưa không đầu không cuối, mưa như trút cơn giận dỗi xuống lòng đường ra rả tiếng xe. Cứ hễ mỗi lần mưa xuống, bất giác tôi nhớ ông. Hồi đó, căn nhà gỗ màu xám san hô của ông lọt thỏm giữa những tầng cây già đẫm nước. Mỗi lần mưa lùa qua rừng, ông không còn bận rộn với việc vào rừng kiếm lá thuốc. Tôi được dịp đòi hỏi sự nuông chiều của ông với những câu chuyện mè nheo con trẻ. Ông say sưa kể về rừng, về những câu chuyện có chút hư cấu, nhưng chung quy cũng là thương từng ti tỉ thứ thuộc về rừng.

Trong hằng hà những câu chuyện của ông đã từng kể, câu chuyện của hạt cây luôn day dứt trong tôi đến tận bây giờ. Mỗi hạt cây là một thế giới của sự đơn độc. Chúng chưa có lá và tất nhiên chưa có cả rễ. Hạt cây chìm trong bóng tối của vỏ bọc, không tiếp xúc với mảy may thế giới bên ngoài. Nhưng sứ mệnh của chúng thì cao cả, sứ mệnh để duy trì nòi giống, duy trì lấy rừng. Hạt cây quay vào bên trong chính mình. Nuôi dưỡng chính mình. Mọi năng lượng, vật chất, hay tất thảy những ưu ái đều dành cho sức mạnh để tái sinh. Tinh túy của đất trời, mọi cơn mưa rào, mọi tia nắng ấm đều hội tụ để chúng có thể cất tiếng khóc chào đời qua mầm lá.

Hạt cây không như chúng ta, hạt cây rời cây mẹ là vĩnh viễn tìm đường đến bãi đáp mới. Chúng nhờ gió, nhờ những con suối để băng rừng, nhờ những thế đất dốc, để khả năng thích nghi một lần nữa được khai mở. Những hạt cây hành hương trong vô định, vì một lý tưởng cũng vô định. Bên trong của bóng tối, mỗi hạt cây chỉ duy nhất cam kết sứ mệnh thiêng liêng nhất của chính mình. Chực chờ nảy mầm.

Quay về đây, nơi đang lưu giữ chiếc hộp ký ức của tuổi thơ tôi. Nắm hạt dổi khô quắt trong lòng bàn tay. Hạt bé nhỏ, lốm đốm màu và không còn một chút hương. Cái mùi của thuở nhỏ đã trôi xa, đã tan bặt vào hư không, cùng với những cánh rừng bạt ngàn tôi từng biết.

​Mưa vẫn luôn không đầu không cuối, mưa như rắc cả những hạt dổi rừng xuống sân. Để rồi mùi của đất ẩm sau cơn mưa, những nụ cười giòn tan khi phụ nữ người Dao, người H’Mông lên rừng hái quả. Mùi dổi cứ vậy mà ám ảnh, một thứ mùi hăng hắc, cay nồng mà ngọt dịu, thứ mùi đã ăn sâu vào tiềm thức, nhắc nhở tôi về một thế giới hoang dã, bình dị. Mùi của bếp lửa, mùi của đồ ăn ông chế biến với hạt dổi, mùi của khói chiều cứ cuộn lên dưới những tán lá, mùi của những câu chuyện cổ tích về núi rừng.

Tôi đứng đó, chỉ biết siết chặt nắm hạt dổi trong tay, những góc cạnh khô cứng của nếp nhăn hằn vào da thịt, một cơn đau rất thật, kéo tôi ra khỏi miền ký ức đang tạo hàng ngàn con sóng vỗ về. Mưa vẫn đó. Nhưng lạ thay, rơi trên mái tôn xám ngoét lại tạo ra một thứ âm thanh cắt cứa đến kỳ lạ. Không còn là tiếng lộp độp trầm ấm, hiền hòa trên mái gỗ nhà ông. Tiếng mưa bây giờ là một chuỗi roi quất xuống giận dữ, lạnh lùng đầy đay nghiến. Chắc chắn không còn là bản nhạc của rừng, mà là tiếng gào thét của một nỗi đau đang bị cầm tù.

​Ngay lúc này, một kẻ lạc lõng giữa chính nơi mình từng thuộc về. Mảnh đất vẫn ở đây, nhưng có chăng linh hồn đã bị đánh tráo? Thay vì màu xám san hô của thớ gỗ bạc màu, thay vì màu của lá rừng, giờ đây chỉ còn một màu xám nặng nề của bê tông và sắc nâu hoen gỉ của kim loại. Chúng tơ hớ phơi mình dưới mưa, không một chút e dè, không một chút rung động. Chúng không biết kể chuyện, cũng chẳng biết ủi an người cũ. Chúng dường như chỉ biết câm lặng và xâm lăng.

​Ai sẽ trả lại con đường mòn nhỏ xíu luồn lách dưới những gốc cây già, nơi mỗi bước chân là một lần được chạm vào rêu mịn? Đâu rồi tiếng lũ chim ríu rít gọi bầy sau mưa. Đâu rồi mùi hương của đất, của gỗ mục, của lá cây và nhựa thơm quyện vào nhau tạo thành một thứ không khí xốp bông trong khí quản, trong lành đến tê dại lồng ngực? Tất cả như bị nén vùi dưới lớp bê tông phẳng lì, lạnh ngắt. Tôi cố hít một hơi thật sâu, cố gắng tìm lại dù chỉ một chút tàn dư của mùi thân thuộc. Vô vọng. Không khí giờ đây chỉ nồng lên mùi xi măng ngai ngái và mùi oi nồng của sắt gỉ ngâm nước.

​Cơn mưa, cũng như ông, như những cánh rừng dổi, đã trở thành một phần của trảng nhớ. Tất nhiên không phải là cơn mưa của hiện tại. Bởi hiện tại chỉ có những bức tường kiên cố được dựng lên giữa nỗi trống rỗng trong lòng. Người ta có thể xây một căn nhà to hơn, vững chãi hơn trên nền đất cũ, nhưng làm sao xây lại được một thế giới? Làm sao đắp đổi được những tháng năm mà ở đó, có một đứa trẻ ngồi nép mình bên ông, nghe mưa kể chuyện rừng?

​Sự mất mát lớn nhất không phải là khi người ta lấy đi của mình một vật gì đó. Sự mất mát lớn nhất là khi họ lấy đi cả một khung trời, một bầu khí quyển, một miền ký ức mà ta đã từng hít thở và lớn lên trong đó. Họ san phẳng một khu rừng, nhưng lại vô tình đốn hạ luôn cả cây cổ thụ trong tâm thức, một khoảng trống không gì lấp đầy được.

​Tôi mở lòng bàn tay, nhìn những hạt dổi nhăn nhúm. Chúng cũng giống như tôi lúc này, đã bị tước đi mảnh đất để nảy mầm, bị tước đi cơ hội để tiếp nối sứ mệnh thiêng liêng. Nắm hạt dổi này, có lẽ là di vật cuối cùng của khu rừng, là chút teo tóp sót lại của một thế giới đã giật phăng đi vào quá vãng. Tôi không biết nên gieo chúng ở đâu giữa bê tông và sắt thép này. Hay cứ giữ mãi chúng trong lòng bàn tay, để hơi ấm của cơ thể nhắc nhớ rằng, đã từng có một khu rừng, đã từng có một ngôi nhà gỗ xám màu, nơi đã từng có những cơn mưa âm thầm gieo mầm sự sống, chứ không phải xối xả ầm ào như lúc này.

​Mưa vẫn cứ thế, không đầu không cuối, như giăng chính nỗi nhớ của tôi vậy. Chỉ khác là, mưa rồi sẽ tạnh, còn nỗi nhớ về ông, về khu rừng, có lẽ sẽ gieo mầm và mọc thành một nỗi buồn vĩnh cửu từ bên trong.

Rừng ư. “Rừng thiêng nước độc” giá như những từ ngữ này là thật, giá như rừng có một quyền năng nào đó. Có lẽ rừng đã không phải xẻ thịt mình. Xẻ thịt mình rồi cứ lặng lẽ lùi xa, chừa chỗ cho sự sinh sôi của con người.

Ở phía tận tít tắp, nhưng rồi mưa sẽ vẫn quàng qua thung lũng, nơi những hạt cây nương theo nước để trôi. Nhẹ tênh.

Đánh giá bài viết 1 Star (Chưa có bình chọn nào)
Loading...