Phường Tuy Hòa – phố nhỏ ven biển thuộc tỉnh Đắk Lắk, nơi góc phố nào cũng mang hơi thở hiền hòa của nắng, của gió và của những con người chân chất. Mỗi mùa hè về, phố như dịu lại. Dọc con đường Hùng Vương, những hàng bằng lăng tím nở rộ, tỏa sắc dưới nắng như dải lụa mềm ôm lấy phố phường. Cảnh sắc nơi đây không chỉ đẹp bởi trời xanh, gió mặn, mà còn bởi nụ cười, bởi giọng nói của những người dân quê mộc mạc.
Giữa trưa oi ả, tiếng rao quen thuộc của người đàn bà đạp xe lại vang lên:
- Ai bánh hỏi, bánh bèo không?
Âm thanh ấy nhẹ như gió, mộc mạc mà thân thương đến lạ. Ở góc khác, tiếng xèo xèo từ chiếc chảo bánh xèo nhỏ bên lề đường lan ra, thơm nức cả khoảng không. Có những ngày, chỉ một ly chè thập cẩm giá năm nghìn thôi mà thấy mát rượi cả tấm lòng.
Góc phố ấy – nơi tôi vẫn đi qua mỗi ngày – bình yên đến mức tưởng như thời gian chẳng muốn trôi. Tôi nhớ khi mình còn bé, chừng tám tuổi, mẹ thường gánh những gánh khóm, mít nồng nàn mùi thơm dọc những con đường của Tuy Hòa để bán. Đó là những món trái cây bà ngoại gửi ra từ quê. Tôi theo mẹ, chân trần nhỏ xíu, lon ton sau đôi quang gánh. Và đâu đó, tôi lại nhớ mùi hương thơm của khóm và mít. Tôi nhớ dáng mẹ tôi thời còn son trẻ. Con đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo… mỗi đường có một nét riêng, nhưng đâu đâu cũng ấm tình người Tuy Hòa – mộc mạc mà sâu nặng.
Nhiều năm xa quê, trở lại Tuy Hòa, tôi thấy phố đã đổi thay. Những dãy nhà cao tầng mọc lên, đèn điện sáng hơn, phố xá đông hơn. Nhưng may thay, con người vẫn vậy – vẫn là cái nghĩa, cái tình cũ kỹ mà đáng quý. Có hôm, tôi mua mớ rau muống mà quên tiền thối:
- Cô ơi, tiền thừa nè cô!
Nghe giọng cô, tự nhiên thấy sống mũi cay cay. Người Tuy Hòa là thế đó – giản dị, thật thà, và đầy yêu thương.
Rồi một ngày, bão đến… Tin bão tràn về, cả khu phố rộn ràng chuẩn bị: người bơm túi nước chèn mái tôn, người mua dây thép cột chặt cửa sổ. Bác Ba sang giúp chú Năm, nhà cô bán nước mía lại qua dán băng keo kín lên các khung cửa kính cho nhà cô tạp hóa. Ai nấy dặn nhau nhớ sạc đèn pin, tích trữ nước, đề phòng mất điện. Phố bên biển nên vào mùa mưa, ai cũng thấp thỏm như thế.
Đêm ấy, gió gào thét. Mưa đổ nặng hạt, đập ràn rạt lên mái tôn. Cây phượng cổ thụ nơi công viên Nguyễn Huệ ngã rạp, rễ trồi lên như vết thương của đất. Trong bóng tối, chỉ nghe tiếng gió rít, tiếng mái nhà rung bần bật như hơi thở của người đang gắng gượng chống chọi. Tiếng sóng biển gầm gào ngoài xa nghe như nỗi giận dữ của trời.
Nhà tôi có tám anh em nhưng các anh chị đều đi làm xa. Mùa bão năm nay, chỉ còn hai chị em với ba mẹ ở nhà. Em tôi còn bé, chưa hiểu bão là gì. Nó cứ ngó qua khung cửa sổ, mắt tròn xoe, thăm dò. Tôi vội kéo em vào phòng, chui vào trong chăn. Hai chị em nằm im, nghe tiếng gió rít ngoài kia mà chỉ mong trời mau sáng.

Rồi bão cũng qua. Sáng hôm sau, trời hửng dần. Mọi người trong khu phố đều dậy thật sớm. Ai nấy xắn tay dọn dẹp: người quét lá, người nhặt rác, người khiêng cành cây ngã đổ. Các cô, chú công nhân môi trường lặng lẽ làm việc, mồ hôi ướt đẫm áo, nhưng ánh mắt ai cũng ánh lên niềm vui. Chỉ trong một buổi sáng, phố lại sạch, lại gọn, lại rạng ngời như chưa từng có bão..
Khi mặt trời bắt đầu nhú lên, rọi qua mái nhà còn vương nước, tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm. Nắng đã trở lại trên phố Tuy Hòa — thứ nắng của bình yên, của yêu thương, và của lòng người bền bỉ sau giông gió. Tôi tin, dẫu bão có quật ngã cây, có làm vỡ kính, có dập nát vài mái tôn… thì lòng người Tuy Hòa vẫn ấm như nắng, vẫn hiền hậu và nghĩa tình như thuở nào.

Bài viết liên quan: