Tôi gặp Hương vào năm học lớp Bốn, nghĩa là trải qua 10 năm dài dằng dặc trong cuộc đời mà không có nhiều điều để kể.
Hôm đó, một ngày thu nắng vàng và Hương đã đến trong cuộc đời tôi. Bạn tin không, lúc nhìn thấy cô, tôi nghe tiếng chim hót líu lo ngoài sân trường và ông mặt trời lạ thường cứ tò mò ghé lớp tôi nhìn trộm, không muốn rời đi; còn thầy giáo lớp tôi là người có đôi mắt đeo kính đẹp nhất thế gian. Biết bao người đeo kính cận trên trái đất rộng lớn này, song tôi phải công nhận mắt thầy đẹp nhất khi ngó vào bàn học còn khuyết một chỗ ngồi, chỉ tay và nói: “ Giới thiệu cả lớp, bạn Hương!”. Nói xong thầy đi cùng bạn mới và bàn học tôi từ đây không còn khuyết nữa.
Đôi khi cuộc đời trở nên tươi đẹp từ những quyết định nhỏ nhặt như vậy. Tôi nghĩ rồi tôi đếm, cả lớp có đến năm cái bàn còn khuyết chỗ ngồi, nhưng thầy giáo lại ghép đôi tôi ngồi chung với Hương – một con nhỏ mắt hai mí rõ, cằm chẻ, má lúm đồng tiền và chiếc răng khểnh trông đẹp làm sao!
Tôi nhìn mặt cô và nghĩ đến đóa hoa trong vườn. Thế nên tôi hỏi Hương:
– Cô nương ơi, cho chủ nhân cái bàn này biết: cô sinh vào tháng mấy?
Bạn có bao giờ nghe nói đến “đôi mắt tròn xoe” chưa? Tôi đồ là người ta nói cho vui vậy thôi! Trên đời không có đôi mắt tròn xoe đâu, cùng lắm là tròn vừa vừa, hoặc không tròn mà hếch lên, hấp háy như người ăn phải trái me chua! Đó, đôi mắt ngạc nhiên của Hương là vậy đó!
– Đây sinh tháng Hai, còn bạn? Cô hỏi tôi.
– Cô nương sinh tháng Hai, vậy nhỏ hơn mình rồi! Mình sinh tháng Tám, ngày rằm Trung thu, trăng tròn vành vạnh chiếu sáng khắp khu vườn…
Tôi muốn khoe mình là ông chủ khu vườn, nhưng ghìm lại được, phải chọn đúng thời điểm để khoe.
– Cậu nói sai rồi! – Cô nói. – Đây sinh tháng Hai, lớn hơn mới đúng. Lớn hơn tận 6… tháng cơ!
Cô bạn cố tình kéo dài con số 6, như muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sinh ra trước tôi.
Có vẻ cô bạn không khác tụi con gái lớp tôi là mấy, tôi nghĩ bụng. Mà cũng có thể, tôi không thích cô bạn ngồi chung bàn lại ra đời trước tôi. Tôi cho như vậy thì mất mặt quá đi!
– Ha…ha – Tôi cười lớn. – Cô nương ơi! Thế từ bao giờ con số 2 lớn hơn số 8 vậy cô nương? 8 phải lớn hơn 2, thành ra sinh tháng Tám lớn hơn sinh tháng Hai. Chỉ người lớn với cách tính của họ mới nói điều ngược ngạo; tụi mình là học sinh, phải dựa vào số thứ tự toán học để so sánh. Người lớn, ôi thôi, họ nói năng cứ lộn tùng phèo cả lên!
– Đằng đó nói chuyện kỳ cục quá! – Cô bạn bĩu môi, cự nự. Rồi như không muốn hơn thua cái đứa ưa cãi chày cãi cối là tôi đây, cô mỉm cười ra vẻ nhượng bộ. – Cứ cho là sinh tháng Tám lớn hơn tháng Hai, thì đã sao? Đằng đó cùng tuổi mình cơ mà!
Rồi không thèm nghe tôi lý sự cùn nữa, cô bạn khom người lục lạo từ trong cặp lấy ra cuốn sách toán, ngồi nhẩm lại bài vở. Tôi thất vọng, cuộc đời lại có thêm một người thích tính toán hơn là ngồi nói nhăng nói cuội với tôi. Thiệt tình buồn ghê… Nhưng có lẽ tôi buồn vì cô xưng hô với tôi là “đằng đó”; nghe xa lạ quá đi! Tôi không chấp nhận vậy đâu!
– Cô nương ơi…Cô…- Tôi còn chưa kịp nói hết câu thì cô bạn vội chặn họng.
– Đây tên Hương, không phải tên: Cô nương! Mà thầy vào lớp rồi kìa! Đằng đó lấy tập ra đi!
Đôi mắt tròn cô nheo lại…Bùm…xì…éo…Bùm…Tôi tưởng tượng cô đang bắn liên thanh bằng mắt. Miệng cô mím lại. Rồi cô quay mặt đi chỗ khác, song không hiểu sao tôi cảm giác cô đang cười khúc khích một mình. Tôi dỏng tai nghe thử…
Bạn biết đó, ngay cả khi chờ đợi ai đến 10 năm dài đăng đẳng, cũng không lấy gì đảm bảo khi gặp ta không thất vọng. Suốt buổi học hôm đó tôi không thèm bắt chuyện với cô, dù đôi khi tôi len lén nhìn cô vì tò mò. Còn cô, tiếng cười khúc khích làm chiếc răng khểnh như khểnh thêm ra!
Nhưng vài hôm sau là câu chuyện khác. Điều này giúp tôi rút ra kết luận quan trọng: Khi con gái cần là lập tức mở lời trước. Thước đo một đứa con gái không phải là chỉ số chiều cao như trong toán học, mà là cách cô ta quên. Cô nương khi thì bỏ quên cục gôm; lúc khác là cây com – pa, cây thước kẻ.
Quên là điểm yếu của cô; còn nhớ là điểm mạnh của tôi. Thế nên:
“Đằng đó! Cho mình mượn cây thước coi”. “Cậu nè! Sáng đi vội, cây viết tìm mãi không ra!”…
Tóm lại, cô chủ động nói, còn tôi hiểu vì sao trẻ con trên đời này đều thích ăn đồ ngọt. Giọng cô ngọt ngào và trong veo; đôi mắt màu hạt huyền và sáng lấp lánh như hai ngôi sao trên trời cao. Tôi còn có thể làm gì ngoài việc cho cô mượn thứ cô quên?
Thế nên, tự nhiên tôi thành kẻ lo xa, dụng cụ học tập trong cặp tôi thành ra sinh đôi: Hai cây bút; hai cái com – pa; hai cục gôm; hai cây thước kẻ. Dù sao, cặp không nặng hơn là bao!
Nhưng ngoài tính hay quên ra, không có gì rầy rà ở cô. Cô nương là người vui vẻ, nói nhiều và nhai kẹo còn nhiều hơn. Dụng cụ học tập cô quên chứ kẹo thì không bao giờ, cơ man nào là kẹo trong cặp cô. “Ăn chung đi, cho vui!”. Ngày nào cô cũng mời tôi, mấy viên kẹo xanh xanh, đỏ đỏ. Đôi khi tôi nghĩ, nhà máy kẹo ra đời chẳng qua để phục vụ thói quen ăn ngọt của cô. Tôi từ chối, sợ mấy con sâu tìm cách bầu bạn hàm răng, song thỉnh thoảng tôi không thắng được cám dỗ. Tôi là bạn cô mà, để bạn hưởng đồ ngọt một mình sao đặng! Cô nương cho tôi ăn, còn tôi tìm cách trả lại cô bằng đồ uống si rô, nước cam, chanh dây. Và táo…
Vườn nhà tôi có đủ táo để phục vụ mục đích cá nhân. Nói thật ra, tôi sống rất có kế hoạch.
– Cô nương ơi! Táo ngọt mê tơi phải không? – Tôi đưa một trái chín vàng, hỏi.
Cô cắn trái táo, nhai, và gật đầu. Trái táo ta loáng cái chỉ còn hột. Cô có vẻ còn thèm ăn.
– Cô nương ơi! Táo có vị ngọt thanh, vừa có vị chua phải không? – Tôi đưa trái thứ hai, còn xanh, vỏ bóng loáng nhìn đẹp mắt, hỏi cô.
Cô tiếp tục ăn trái thứ hai, nhả hột, vị chua đọng lại, ứa ra. Cô nhăn mặt, nói:
– Táo ngon lắm đấy! Mua ở đâu mà ngon vậy?
– Táo trong vườn nhà mình. Hình như có lần mình nói, mình làm chủ khu vườn cơ đấy! Hương quên rồi à!- Tôi nói, xưng tên với cô nương. Việc hệ trọng thì phải xưng tên.
– Không biết! Mà này, táo ta ngon thiệt đó! – Cô cắn trái thứ ba, giòn rụm, chua, nhăn mặt trả lời tôi.
– Thế mai chủ nhật, Hương có muốn ghé qua tệ xá, thăm mảnh vườn nhà mình, tha hồ được ăn táo không?
Ví dụ ngày xửa ngày xưa, trong một ngôi làng nằm ven sông, có đứa con gái được mời ăn ba trái táo mà miệng còn thòm thèm, câu trả lời lập tức là: có.
Còn ngày nảy ngày nay, trong một ngôi trường nằm ven đường, có đứa con gái được mời ăn ba trái táo mà miệng còn thòm thèm, câu trả lời cũng là… có. Cơ mà trước đó, cô nương phải giả đò ngó lơ sang nơi khác. Ngó đi đâu đó cho ra vẻ quan trọng hơn lời mời, rồi trả lời:
– Sáng mai, mình nhất định ghé tệ xá nhà cậu! Đợi mãi mới thấy mời đấy! Mình biết nhà cậu có mảnh vườn từ lâu rồi!
Con gái luôn phức tạp vậy đó! Khi thì nói không biết nhà tôi có mảnh vườn, bây giờ lại nói biết từ lâu, thiệt tình không biết đâu mà lần, tôi lắc đầu. Mà thôi kệ, hơi đâu đi cãi với con gái, cái chính là tôi đạt được mục đích rồi!
Tôi cần một người làm vườn!
Tôi luôn nghĩ một ông chủ mảnh vườn thì tốt nhất phải có người làm vườn.
Một khu vườn rộng rinh, bạn biết đó, công việc đăng đăng đê đê, mở mắt ra là thấy bao việc. Có thêm người làm vườn thì còn gì vui bằng. Lâu nay chỉ có tôi và con Milu chăm sóc vườn. Mà tôi thì có thói quen vừa đi vừa chắp hai tay sau lưng; con Milu có thói quen di chuyển bằng bốn cái chân; thân nó lo còn không xong nên trông mong gì! Có cô nương tham gia lại là chuyện khác, cô nương có hai tay giống tôi.
Tôi còn hình dung hai tay tôi chống ngang hông đi quanh vườn, có con chó nhỏ theo sau, trong khi đó, cô nương ra sức làm lụng trên mảnh vườn nhà tôi. Trời biếc xanh êm ả với cả nắng vàng và mây trôi nhẹ nhàng trên cao. Dĩ nhiên lúc cô nương mệt mỏi vì công việc, tôi sẽ thưởng công như một ông chủ hào phóng: cho cô thưởng thức mấy quả táo chín vàng. Còn cô – đương nhiên rồi – nhìn tôi với ánh mắt cảm kích, rồi nói: “Cậu thật là ông chủ vườn tốt bụng nhất quả đất! Mình nguyện làm lụng suốt quãng đời còn lại trên mảnh vườn nhà cậu!” Chỉ tưởng tượng thế thôi mà tôi thích quá, cười lên ha…ha…

Tôi cười từ buổi trưa sang buổi chiều và kéo dài đến đêm. Cười nhiều làm tôi mệt, đánh một giấc ngon lành.
Ban mai, tiếng chim huyên náo ríu rít bên tai, hết ngủ nổi, tôi nhảy xuống giường. Ra tới vườn, tôi ngước mắt nhìn bầu trời và cảm ơn một ngày trong xanh. Lúc này, tỉnh ngủ hẳn, tôi thả hồn mình vào khúc hợp tấu muôn chim. Tôi nhìn, bầy chim chuyền cành, tung hứng, mặc sức hát ca. Kìa, chim én cất giọng líu lo trên đọt cây; chim sáo véo von trên cành táo, chốc chốc đưa mắt nhìn về phía tôi như cảnh giác. “Cơ mà, chưa đến giờ làm vườn, còn khối thời gian để ném đá đuổi lũ chim trời”. Tôi nghĩ bụng. Vả lại, một sớm mai đẹp như hôm nay, tôi không muốn làm xao động bầu không khí bằng mấy viên đá bay loạn xạ, chẳng trúng mục tiêu. Cứ để cho chim ăn sáng. Một vài chú sơn ca, đầu túm tụm lại, dùng mỏ rỉa tới rỉa lui ra vẻ bàn tính chuyện gì hệ trọng; rồi chuyền cành, thi nhau cất tiếng hót như muốn tranh phần thưởng được sưởi ấm dưới ánh nắng mặt trời.
Trên đọt cây dẻ cao lênh khênh, nơi góc vườn, đàn chim sẻ thi nhau gọi bầy. Vườn nhà tôi vô số chim sẻ: con thì sà xuống đậu cành cây; con soi gương trên mặt nước tù đọng; con đậu tít trên mái ngói. Chúng cứ chiêm chiếp, ríu rít cả ngày không biết mệt.
Tôi đưa mắt hướng về khóm hoa trước nhà, bắt gặp đàn bướm đa sắc, đang đùa giỡn cùng nhánh hồng. Bướm bay vòng vòng quanh mấy đóa hoa rồi thả neo như muốn nói lời yêu thương có ánh mặt trời chứng thực. Tôi có cảm giác mình đi lạc vào ban mai rực rỡ, và khu vườn, lung linh tia nắng như muốn nhấc bổng hồn tôi bay tít lên trời cao.
Tôi chỉ đặt hai chân xuống mặt đất khi Hương đến.
***
“Mình đi dạo thôi nào!”
Tiếng cô nương, mặt áo màu hường, vang lên trong buổi sáng mùa xuân rộn rã tiếng chim ca.
Có gì nhầm lẫn ở đây không vậy trời! Thời gian gần đây, vì mối thân tình một bàn ngồi hai đứa, bọn tôi – bên cạnh cách gọi: “cô nương” và “đằng đó” – còn xưng là “mình”. Nhưng “mình”, theo tôi hiểu, có nghĩa là một hoặc hai đứa “mình”. “Mình đi dạo thôi nào!”, nếu tôi không nhầm là cả hai cùng đi dạo. Ơ kìa! Ở đâu có kiểu nói chuyện tự tin thấy ghê! Bộ cô nương quên đây là vườn nhà tôi? Lẽ ra chỉ tôi mới có quyền mời cô đi thăm vườn. “Xin mời cô nương đi dạo”, đại loại mấy câu kiểu vậy!
Song tôi thầm nghĩ trong bụng cho ra vẻ quan trọng vậy thôi! Một ông chủ vườn rộng lượng không nên chấp nhứt từng chút một làm gì!
– Ừ! Thì mình đi thôi! – Tôi dõng dạc nói, rồi đưa bàn tay đánh võng, mời cô. Như vậy tôi bằng lòng rồi, cho phép cô nương thăm quan khu vườn rộng rinh.
Bọn tôi sóng đôi theo hàng ngang. Tôi đặc cách cho con Milu đi tùy tiện. Tôi còn bận tiếp khách, nên không ngó ngàng tới nó. Chốc chốc, con Milu ganh tỵ người bạn mới, thấy tôi không đếm xỉa đến, nó sủa: “Gâu…Gâu…”, tỏ ý phật lòng. Chim sẻ bay vòng vòng, lượn lờ trên đầu bọn tôi. Ôi! Những con chim sẻ dạn dĩ đến lạ.
Ban đầu, tôi có ý định mời cô nương đến phụ tôi làm việc: gom táo chín rụng trong vườn, ném đá đuổi chim bay đi, vạch lá bắt sâu… Nhưng đời đâu ai ngờ! Tôi nói: “Mình nhặt táo chín rụng nào!”, cô nghe xong liền nhoẻn miệng cười rồi nhảy tót lên cây ổi ngồi, đưa tay vờn mấy trái ổi hườm ổi chín. Tôi bảo cô nhặt đá cho tôi ném lũ chim trời thì cô gật đầu lia lịa, rồi chạy đi đâu mất tiêu. Tôi lại tốn công đi tìm, gặp cô đang ngồi nhìn con ốc sên với đôi mắt chăm chú.
– Cậu nè, cô nói. Con sên này ngộ lắm, tại sao nơi nào sên bò qua là có một vệt gì mờ đục màu trắng phía sau?
– Đó là chất dịch tiết ra từ chân, giúp ốc sên bò được. Sên bò đi thì chất dịch còn ở lại. – Tôi giải thích.
– Ngộ ghê! Cơ mà, nếu bảo ốc sên có chân thì sao không đi cho nhanh mà bò chậm chạp đến vậy?
– Thì bởi – tôi tìm lời – sên là động vật thân mềm, thuộc họ: chân bụng. Thế nên sên chỉ biết bò ngay cả khi có chân!
– Còn hai cái vòi con sên, tại sao phải vểnh lên như thế mới chịu cơ chứ?! – Cô lại hỏi, chưa chịu buông tha cho tôi.
– Không phải cái vòi! – Tôi nói. – Có phải con voi đâu mà nói cái vòi! – Đó là hai xúc tu; nói dễ hiểu là hai cái râu của ốc sên, giúp định hướng di chuyển và kiếm ăn.
– Đằng đó nói toàn chuyện lạ lùng! – Cô cong môi, nói. – Sao đằng đó lại biết mấy điều lạ lùng như vậy?
– Mình đọc trong sách: Bách khoa động vật. Một ông chủ vườn, cô nương biết đó, phải tìm hiểu…
Tôi còn chưa kịp “tự hào”, chưa nói hết câu thì cô bèn nhảy chân sáo, bỏ đi nơi khác. Chắc cô chán xem con ốc sên rồi! Tôi còn biết làm gì ngoài việc chạy theo cô? Thế là đi tong kế hoạch làm vườn của tôi rồi! Tôi thầm nghĩ. Chạy theo cô thôi đã mệt, còn hơi sức đâu làm vườn! Nhưng cô nương vẻ háo hức lắm. Cảm giác lần đầu tiên trong đời được hòa mình vào thiên nhiên, tận mắt chứng kiến mảnh vườn do một tay tôi gầy dựng thì không háo hức mới lạ! Từ xa, tôi nghe trong gió tiếng cười khanh khách cô nương. Tôi đuổi theo tiếng cười, chạy theo làn gió và tiếng nhạc chim ríu rít, khi xa lúc gần.
– Con chim gì mà bé xíu, có bộ lông màu vàng đẹp thế? – Cô hỏi.
Tôi nhìn theo đầu ngón tay cô. Ô hay! Lâu rồi tôi mới thấy loài chim này trở lại mảnh vườn nhà tôi.
– Con chim yến phụng. – Tôi nói.
– Tên đẹp quá, cậu à!
Cô say sưa đưa mắt nhìn con chim chuyền cành trên nhành bưởi. Chim neo lại nhánh cành, rồi chốc lát có hai rồi ba con khác đến đậu chung. Bốn con yến phụng nhỏ xinh tách đôi thành hai cặp, đầu dúi vào nhau nhỏ to ngôn ngữ loài chim. Sắc vàng từ chiếc áo chim, được bệ đỡ bởi muôn ngàn tia nắng mặt trời, như nâng màu mắt cô nương lên tận trời cao. Mùa xuân, bầu trời trong và mây nối đuôi bay thành hàng đến nơi vô định. Tôi nghe lòng phơi phới, quên hẳn gánh nặng một người làm vườn; quên hẳn bổn phận ông chủ vườn, chỉ muốn dạo chơi cùng cô. Tôi muốn cho cô thấy cảnh đẹp khu vườn. Tôi muốn cô biết phải may mắn lắm cô mới được tôi mời đến thăm khu vườn. Còn công việc cứ để đó, sớm muộn gì cũng xong, tôi thấy mình khó lòng hờ hững trước sắc xuân trong vườn.
Ban đêm, lúc tôi ngủ, có cơn mưa dở chứng. Mà nào tôi có cầu mưa đâu. Đang độ xuân rộ, cơn mưa lén lút trút nước cho mùa thêm xanh lá. Hồi tối nằm trên giường tôi nghe tiếng mưa đêm rơi lộp độp trên mái ngói. Tiếng mưa âm trầm, dài dặc và miết mải như tiếng hát mẹ ru tôi bên nôi. Sáng ra, bầu không khí trong veo kèm theo sắc thiên thanh và mảnh vườn chẳng thèm cầu cạnh người tưới nước.
– Cô nương ơi! Đến đây xem vũng nước to đùng nè! – Tôi gọi cô.
Đó là chỗ trũng, mặt đất thấp tè làm nước trong vườn đổ dồn về sau một đêm mưa. Mặt nước trong veo bởi cơn mưa xuân.
– Một vũng nước thì có gì hay ho để xem! – Cô ngúng nguẩy, dùng dằng rồi miễn cưỡng bước về phía tôi.
– Thì cô xem đi, có thứ còn rộng lớn hơn khu vườn nhà mình! – Tôi chỉ tay xuống vũng nước.
A..a…à… cô hiểu ra! Có hàng cây sậm đen, xam xám trên mặt nước. Có cả cây lẫn trái; nhánh cành; lủng lẳng đung đưa khi cơn gió thổi mạnh qua.
– A…à…a…, cây mận, cây mít. – Cô reo lên, rồi cười khanh khách.
– Hương còn thấy gì nữa nào, thứ rộng lớn gấp ngàn lần khu vườn, rộng lớn hơn mặt đất dưới chân? – Tôi hỏi cô, thách đố.
– Thật kỳ diệu! – Cô nói. – Còn có bầu trời và mây nhẹ trôi. – Cô lại cười khúc khích, tiềng cười của cô chen chúc hòa vào tiếng chim ca.
Cô nhìn chằm chặp vào mặt nước trong xanh một lúc lâu, rồi nhẹ giọng nói:
– Mây bay cuối trời, cậu à! Cô chỉ tay về phía đám mây – có đám mây trắng tích tụ trên trời cao soi bóng lên mặt nước. Bầu trời biếc xanh đang soi gương tự ngắm nghía chính mình.
– Hả, cô nương nói sao? Tôi hỏi lại.
– Mây bay cuối trời. – Cô bạn nói. Đó là hình ảnh cô nhìn thấy qua vũng nước nhỏ!
Thì ra, cơn gió lùa mây trôi lăn tăn trên mặt nước. Tôi nhìn về phía tay cô chỉ và nhận ra, mây đang bay về phía cuối trời. “Cứ tự do bay đi mây nhé, ngay cả khi soi mình trong vũng nước nhỏ nhoi”. Tôi thầm nói.
Thốt nhiên, có đàn chim bồ câu từ đâu bay tới, sà xuống vũng nước, vục chiếc mỏ nhọn uống nước ngon lành. Đàn chim không chút xót thương mà băm bổ, mổ từng nhát vào bầu trời, vào mây, vào cây mít…Mặt nước lao xao, chênh chao khi lũ chim no nước, vỗ cánh bay đi.
– Tại sao…tại sao cậu lại biết tất cả những chuyện này? – Mắt cô tròn xoe, vẻ mặt thích thú hỏi tôi.
– Mình thích quan sát. Mình sống cả đời trên mảnh vườn này rồi! Còn có chuyện gì lọt khỏi mắt mình cơ chứ! – Tôi nói, vẻ quan trọng quá đáng!
Thực ra, được cô nương ngưỡng mộ, tôi vui lắm! Định bụng sẽ nói nữa, rằng mặt nước tuy nhỏ nhưng có thể thâu tóm cả bầu trời rộng lớn; chỉ cần ngồi trên mảnh vườn nhà tôi là thấy thôi. Chỉ cần cô nương chịu ghé mảnh vườn nhà tôi là được thấy mọi cảnh đẹp thế gian. Ở đó – cây cối, chim chóc, áng mây bay – có khi nhỏ bé và vô nghĩa trong mắt người lớn, nhưng thật diệu kỳ đối với tôi.
Nhưng mấy điều thầm nghĩ tôi còn chưa kịp nói ra – để chứng minh cho cô biết tôi là ông chủ vườn sâu sắc đến nhường nào – thì cô tiện tay nhặt mấy viên sỏi dưới đất, ném vào cái bao la trời – mây – cây mít. Mặt nước lại một lần nữa chênh chao, từng cuộn sóng lăn tăn nhấp nhô. Mặt trời và mây vụn vỡ. Rồi cô khoái chí cười ha…ha, bỏ đi.
Lần đầu tiên trong đời tôi phát hiện ra rằng: con gái giỏi nhất là hỏi và…hỏi. Khi hỏi xong rồi, con gái thích chạy đi tìm điều khó hiểu khác để tiếp tục hỏi.
Con gái thích chạy, để bọn con trai phải chạy theo!
Tôi có thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục chạy theo cô?
***
Ngôi nhà nhỏ nằm lọt thỏm trong khu vườn rộng lớn ở xứ Hố Nai, nơi ba mẹ đến lập nghiệp và sinh tôi ra. Đất của người quen, và gia đình tôi tá túc trên đó. Ba tôi hùn hạp cùng người khác, làm chủ nhà máy nước đá trong xóm; còn mẹ thì may vá và chăm sóc mảnh vườn. Mẹ cũng hay lui tới chợ, công việc liên quan đến tiền góp hàng ngày của mấy cô chú ngồi trong các sạp hàng buôn bán. Tôi không hiểu mấy, chỉ lờ mờ biết tiền sẽ sinh lời nếu mẹ thu đủ từ ngày đầu đến ngày cuối tháng. Tóm lại, quao, từ nhỏ đến giờ tôi không biết cảm giác nghèo khổ là gì. Vả lại, tôi là con một nên ôm trọn tình thương yêu của ba mẹ. Hồi nhỏ tôi luôn thắc mắc, tại sao ba mẹ tôi khá khẩm vậy mà không tậu cho riêng họ mảnh đất để phải chịu cảnh sống nhờ trên đất người khác? Bây giờ tôi hiểu, ba mẹ tôi, ý tôi muốn nói là thể xác ở xứ Hố Nai nhưng tâm hồn luôn ngong ngóng về quê hương miền Trung. Ba mẹ tôi đều là con cả trong gia đình đông anh em, bên cạnh quê hương thì hẳn là nỗi nhớ anh em ruột rà thân thiết. Có lẽ trong thâm tâm, ba mẹ tôi đã có quyết định hồi hương từ rất lâu rồi. Tôi có phòng riêng hẳn hoi, là nói có một nơi để ngủ nghê với đầy đủ đồ dùng mà một đứa nhóc cần: Bàn học tập, ghế gỗ, kệ sách, đèn học, đồng hồ cát… Người ta phải có một không gian nhỏ bé riêng tư để suy nghĩ về những chuyện lớn lao trong cuộc đời. Ý tôi muốn nói, suy nghĩ của bạn sẽ bị cắt vụn ra thành từng mảnh nếu ở một nơi đông đúc và ồn ào. Thế nên căn phòng riêng tư là thứ vật chất mà một đứa trẻ xứng đáng nhận và, giá người lớn họ chú ý đến chi tiết nhỏ nhặt như chiếc cửa sổ đặt đúng chỗ chẳng hạn, thì còn gì tuyệt vời hơn!
Ngay trên giường tôi nằm, chiếc cửa sổ mở ra về phía nghĩa địa. Mảnh đất nhà tôi nằm kề nơi người chết an nghỉ. Từ cửa sổ phòng ngủ, nếu nhìn băng qua khoảnh vườn là đến hàng rào – bên kia có hàng ngàn ngôi mộ đắm đuối nhìn tôi. Chuyện là ban đêm tôi thường tưởng tượng trong đầu như vậy, dù có đóng kín cửa sổ nhưng không sao ngăn được suy nghĩ đó. Hàng ngàn đôi mắt ở “thành phố người chết” nhìn xuyên qua cửa sổ, xuyên qua tấm rèm màu đen, chạm tới người tôi. Một chuyện tôi hiểu rành rành là người chết sẽ nhắm mắt, và ai mà biết khi nhắm mắt họ có khả năng nhìn xa tới đâu? Đâu ai biết hết mọi khả năng của người chết! Tất nhiên, tôi không có vấn đề gì với những người nằm yên ắng ngoài kia.
Xóm tôi ở mọi người thường gọi là xóm nghĩa địa! Nhà tôi lại kề bên, hàng ngày tôi còn lạ gì tiếng trống tiếng nhạc ơi hời buồn bã chuyện người sống tiễn đưa người chết. Nghĩa là, dù nhỏ tuổi, tôi quá quen với chuyện già nua, chuyện sinh ly tử biệt, chỉ là tôi không thích ban đêm khi ngủ lại có một chiếc cửa sổ mở ra thành phố những người chết mà thôi. Lỗi này thuộc về người lớn, người thiết kế cái cửa sổ không mấy thích hợp. Giá như cửa sổ nằm ở vị trí mà khi mở ra về hướng chính diện khu vườn thì hay biết mấy. Chỉ cần bỏ chi tiết này ra, hẳn tôi có một nơi nghỉ ngơi lý tưởng rồi!
Dạo gần đây, ban đêm trùm mền nằm đợi giấc ngủ tôi thường nghĩ đến Hương – cái tật xuất hiện cùng lúc tôi biết ý định hồi hương của ba mẹ. Nói thế nào nhỉ? Bầu trời ngày hôm ấy gom mây dông tích một lượng điện lớn đủ để thắp sáng cả cõi nhân gian; nhưng rồi vì sự lơ đễnh bất cẩn – hay cứ cho rằng một sự tập trung với chủ đích khó hiểu – nguồn tia lửa điện mà người ta thường gọi tên: sấm sét, từ các đám mây dồn tụ đánh một phát trúng nhà máy nước đá của ba tôi. Sấm sét đánh trúng và làm hỏng hóc hoàn toàn cái cơ ngơi mà ba tôi cất công gầy dựng. Đánh trúng cái tử huyện gắn kết gia đình tôi và mảnh đất xứ Hố Nai. Sau sự cố, ba tôi người gầy rộc ra, thu nhỏ lại, tóc da bạc màu như chính ông chứ không phải cái nhà máy nước đá lãnh trọn cú đấm từ trời cao. Và từ mặt đất, miệng ông cất tiếng rời rạc, “Về quê thôi hai mẹ con, tất cả là ý trời rồi!”. Tôi nhớ hôm đó lén lút khóc nghẹn ngào ở gian bếp, khóc hù hụ ngoài sân vườn rồi ngước mắt nhìn bầu trời. Hóa ra trên trời cao có Thiên ý buồn bã đến vậy sao?
Quê nội – ngoại tôi có con sông bồi bãi, có biển xanh sóng cuộn, có những người thân yêu chờ đợi chúng tôi về. Ba tôi dõng dạc tuyên bố. Mẹ tôi im lặng đồng tình lời ba nói. Mẹ tôi không có nhiều ràng buộc với xứ Hố Nai ngoài chuyện tiền nong gom góp ngoài chợ, mà chuyện đó có thể giải quyết trong vòng một tháng. Còn ba tôi, giờ chỉ còn lại đống hoang tàng của nhà máy nước đá hỏng hóc, đứng khựng lại và vô phương cứu chữa. Ba mẹ cần trở về quê để bắt đầu cuộc sống mới, đại khái tôi hiểu vậy, nhưng tôi biết ở nơi đó không có Hương. Từ đầu năm học lớp 4 đến giờ tụi tôi luôn có nhau. Tôi còn định bụng lớn lên sẽ cưới Hương làm vợ để cùng nhau nuôi dạy trẻ con, dù chúng tôi bây giờ đang được người lớn nuôi dạy. Dĩ nhiên tôi chỉ nghĩ cho ra vẻ quan trọng vậy thôi, chứ chưa nói ý định lấy Hương làm vợ cho người lớn biết. Người lớn, họ bao giờ mà chẳng làm trầm trọng vấn đề lên, cũng như họ không bao giờ biết được những bí mật nhỏ bé của bọn tôi. Như thế này nè, Hương nói với tôi, “Ông ấy đón ở trường và dúi vào tay mình con búp bê. Chao! Con búp bê trông xinh xắn, nhưng từ lâu mình không còn chơi trò búp bê! Mình muốn một chiếc xe đạp cơ! Người lớn bỏ đi lâu thì trí nhớ bỗng nhỏ lại! Ông trở nên lạc hậu! Cậu phải hứa, có về nơi xa tít tận miền Trung cũng phải nghĩ chúng mình đang ở gần, chỉ như vậy mới không lạc hậu được!”
“Ông ấy” là ba Hương. Ông trở nên lạc hậu trong mắt cô bạn tôi khi rời bỏ gia đình đến sống ở một thành phố khác, cùng người đàn bà khác. Chuyện này tôi nghe người lớn xì xầm bàn tán. Ba mẹ Hương chia tay đường ai nấy đi và năm thì mười họa ông lén lút ghé thăm cô. Lần gần nhất ông đến trường với con búp bê trên tay, thật tội nghiệp ông! Ông không có diễm phúc được lớn lên cùng Hương, do đó thành ra nhầm lẫn và lạc hậu. Nếu còn chung sống dưới một mái nhà, hẳn ông sẽ hiểu cô bạn tôi từ lâu đã nghỉ chơi búp bê. Chuyện này ông có thể hỏi tôi, là nói nếu chúng tôi tình cờ gặp nhau và ông chịu hỏi. Điều tôi chắc chắn là người lớn khi rời xa trẻ con họ trở nên tự tin quá đáng, ví dụ họ thường có suy nghĩ, “Ôi, đây là đứa con gái bé bỏng đáng yêu. Con lúc nào mà không nhỏ bé trong mắt ba!”. Và thành ra nhầm lẫn hết trơn hết trọi. Đứa con gái bé bỏng có cái tên “Hương cô nương” không chỉ lớn lên từng tháng từng năm mà lớn từng ngày. Ngày nào tôi cũng ngồi gần cô bạn nên có thể xác tín điều này…
***
Xứ Hố Nai là tên người lớn đặt cho vùng đất rộng mênh mông. Một vùng đồng bằng, theo hiểu biết của tôi, nhưng trước kia chắc có nhiều hầm hố và nhiều con nai? Ai mà biết được, phải có lý do người ta mới gọi là Hố Nai chứ? Tên gọi nào không đi kèm lý do, như xóm tôi, người ta gọi xóm nghĩa địa bởi nơi tôi sinh sống có cái nghĩa địa hoành tráng.
À, “hoành tráng” là câu nói của chú Báu trại hòm. Chú nói hôm tôi ghé nhà thằng Hậu chơi. “Nghĩa địa không thể tồn tại nếu thiếu trại hòm và may mắn cho ai sinh ra, lớn lên ở một nơi hoành tráng như xóm này!” Hậu cười khi nghe ba cậu nói, còn tôi im lặng chờ chú giải thích. “ Người chết khắp xứ tụ tập về đây, trên mảnh đất này, họ chen chúc một cách có trật tự theo từng mộ phần. Người chết trước, người chết sau; người chết già, người chết trẻ lũ lượt kéo về nhìn nhộn nhịp, hoành tráng quá đi chứ còn gì!”.
Trại hòm chú Báu nghe kể là cơ sở kinh doanh lâu đời trong xóm, có đầy đủ dịch vụ mai táng cho người lìa đời. Chú thừa hưởng công việc làm ăn từ gia đình, nghe ớn lạnh quá nhỉ? Thằng Hậu là con cầu con khẩn; chú già rồi, người gầy guộc quắc queo mà lại để râu dài bạc thếch. Lời chú nói thường làm người khác mắc công nghĩ ngợi, riêng tôi đâm nghĩ mai này, nếu theo công thức cha truyền con nối thì đứa bạn tôi lại giống chú Báu làm nghề trại hòm hay sao? Chú thường ngồi trầm tư mặc tưởng trước thềm nhà, vuốt râu, đưa mắt mơ màng nhìn ra phía nghĩa địa. Những lúc như vậy trông chú giống người đang lên ý tưởng mới cho nghề nghiệp cũ mèm của chú.
Nhà tôi bên hông còn nhà Hậu nằm đối diện nghĩa địa, có thể nói vị trí địa lý làm bọn tôi như hai kẻ canh gác thầm lặng “thành phố người chết”. Nào kèn nào trống nào là cộ xe… Nói cách khác, mọi hoạt động trong nghĩa địa khó qua mắt bọn tôi. Sống đâu quen đó, bọn tôi xem nghĩa địa là địa bàn mình cai quản; tha hồ chạy lăng xăng trong ngày nắng bày biện đủ thứ trò để chơi quanh nơi người chết yên nghỉ, hoặc lặng nhìn mưa rơi trong ngày xám xịt âm u. Phải sống gần nghĩa địa mới hiểu mưa tắm táp mặt đất kĩ lưỡng đến nhường nào! Những ngôi mộ cũ mèm bám bụi, những tổ kiến hang nhện chưng hửng trước cơn mưa giở chứng. Mưa lớn là vòi rồng bắn liên thanh và nắng như máy sưởi làm những ngôi mộ hiện lên trước mắt chúng tôi thật tươm tất sạch sẽ. Ban mai, bầu trời chiếu sáng như khoác chiếc áo mới cho từng mộ phần.
Sống kề sân bay hoặc đường ray tàu lửa hoặc gần nghĩa địa, nếu phải chọn, bọn tôi thích nơi mình đang sống. Một không gian yên tĩnh để lắng đọng tâm tư. Có vẻ tôi suy nghĩ quá chín chắn rồi ấy nhỉ? Tôi nhớ có lần chú Báu nói: “Người trong nghĩa địa không tranh giành gì cả. Họ bằng lòng với mảnh đất bé cỏn con và vì thế, theo một trật tự phải có của kiếp người. Ai rồi cũng có một nơi chốn cho riêng mình.”
Chú Báu cái tật cứ nói điều vượt trên khả năng suy nghĩ của một đứa trẻ. Nhưng thú thật, tôi khá hài lòng với kiểu nói chuyện đó. Phải nói chuyện với bọn trẻ như những người bạn già, vì đằng nào đứa trẻ không lớn lên và già đi. Chẳng phải đó là cách nói chuyện nhận được sự tôn trọng tuyệt đối từ phía đứa trẻ dành cho người lớn hay sao? Mà tôi nói năng cái kiểu gì vậy trời? Có lẽ khi nói ra những lời khó hiểu kia, chú Báu buồn vì công việc làm ăn bết bát. Thằng Hậu tiết lộ với tôi, dạo này cơ sở mai táng mọc ra nhiều quá! Một xóm nhỏ sống quanh nghĩa địa mà có đến năm, sáu cái trại hòm thì đúng là cạnh tranh quá rồi còn gì! Còn tôi, lần đầu tiên chơi trò giả chết và hiểu ra, thế giới người lớn thật phức tạp chứ không đơn giản chút nào!
Chuyện bắt đầu vào một ngày thu trời nhạt nắng và gió hanh hao, chú Báu trại hòm nói với tôi, “Ê nhóc, chú thách mày dám vào quan tài nằm giả chết, độ nửa giờ, dám không? Mày có gan vào quan tài nằm, xin gì chú cũng cho. Sao nào? Sợ xanh mặt rồi phải không!”.
Nhìn khuôn mặt chú Báu cười cợt người tôi đâm ra nhồn nhột. Không phải không có chút nghi ngờ, tự dưng chú lại thách tôi vào quan tài nằm? Tôi còn sống sờ sờ ra đó mà!
“Thế nào…thế nào? Sợ tái mặt rồi hả? Mày với thằng Hậu, lúc nào cũng vỗ ngực tự xưng là dân nghĩa địa! Là người canh gác “thành phố người chết”! Được mỗi cái giỏi khoác lác!”. Chú Báu nói chậm rãi kèm theo điệu cười khả ố nhìn rất chi là khó chịu. Tôi chẳng thiếu thốn gì để phải nhận phần thưởng chú hứa. Tôi chỉ bực bội điệu cười thách đố của chú, thế là máu yêng hùng nổi lên, tôi nhận lời. Dân nghĩa địa, quen mắt với hòm hiếc, có thằng bạn thân là ông chủ trại hòm tương lai thì tôi sợ gì cái quan tài. Tôi lên dây cót tinh thần, tự động viên mình. Hơn nữa, chỉ là trò chơi giả chết thôi mà!
Đó là chiếc quan tài màu đỏ loe loét, được làm bằng bốn tấm gỗ vô tri giác, nhưng không hiểu sao khi nằm vào tôi có cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Khi chiếc nắp quan tài khép hờ, dường như tôi mất đi khái niệm thời gian, chỉ cảm nhận không gian chật chội không cục cựa được; toàn thân tôi mỏi nhừ. Tôi lên dây cót tinh thần rồi mà vẫn sợ. Ờ thì nhà kề bên nghĩa địa rồi sao; chứng kiến vô vàn sinh ly tử biệt rồi thì sao; lúc chui vào quan tài nằm dù chỉ chơi trò giả chết tôi vẫn sợ như thường. Tôi nghĩ trải nghiệm 10 năm trong cuộc đời trước đó chẳng là gì nếu so với chuyện chui vào quan tài nằm. Người tôi ớn lạnh và run lên cầm cập.
Tôi không trụ được đến nửa tiếng như lời thách đố, quá lắm là 5 phút, tôi bật tung chiếc áo quan khép hờ và nhảy ra ngoài. Tôi chạy một mạch về nhà, tởn đến già.
Hôm sau biết chuyện, thằng Hậu tìm đến nhà tôi nói hết sự tình. Có một ông say xỉn người xóm khác chuyên vào quan tài ngủ thuê tính tiền theo giờ, để “giải ế” cho trại hòm nhà nó. Ổng sau đó nghe nói là lộn cổ xuống sông và không ngóc đầu lên được. Ba tao bậy bạ với mày quá! Không hiểu do đâu chú Báu trại hòm tin rằng khi được người ta nằm thử thì quan tài đó sẽ có người tới rước đi? Chắc bởi việc buôn bán áo quan ngày một ế ẩm, cơ sở mai táng mọc sau lệ thường sẽ hoành tráng và thu hút hơn cái trước. Kiểu trại hòm theo lối cũ như nhà chú Báu thành ra khó cạnh tranh. Và chú nghĩ cách kích cầu người mua? Liệu đấy có phải phát kiến của chú Báu trong những lần ngồi trước thềm nhà đưa mắt nhìn về phía “thành phố người chết”? Nếu đúng vậy nghe ớn lạnh và nhẫn tâm quá đi! Còn tôi, nghe Hậu kể xong thì rụng rời tay chân…
***
Sau đó, tôi theo gia đình về quê Bình Định. Đó là thời kỳ việc liên lạc khó khăn như chim bồ câu đưa thư. Tôi mất kết nối với Hương với Hậu và không biết gì thêm về cơ sở mai táng nhà chú Báu. Không biết sau này thằng Hậu có nối nghiệp nhà chú không? Giờ đây, mỗi khi nhớ lại chuyện xưa tôi lại rùng mình nghĩ đến một con ma. Lời chú Báu văng vẳng bên tai, “Người trong nghĩa địa không tranh giành gì cả. Họ bằng lòng với mảnh đất bé cỏn con và vì thế, theo một trật tự phải có của kiếp người. Ai rồi cũng có một nơi chốn cho riêng mình”.
Không có ma trong nghĩa địa người chết. Ma quỷ thường hiện diện ở nơi khó nhìn thấy hơn nhiều.
(Sài Gòn 11, 2025)

Bài viết liên quan: