Hồn núi thơm hương chè cổ – Tản văn của Châm Võ

Cao nguyên những ngày đầu thu, sương bảng lảng khắp các con đường bám chênh vênh mép núi. Đường ở bản mùa này lạ lắm! Sương níu góp chân trần sơn nữ lên nương, sương chùng chình trên lu cở thảo dược theo nẻ xuống chợ phiên, sương vương vấn trong tiếng khèn, tiếng sáo lâng lâng nơi đầu núi, nơi cuối bản. Thoang thoảng trong cái lạnh ở chốn non cao, hương vị chè cổ rộn ràng như muốn giữ chân người ở lại với cao nguyên…

Cao nguyên Sìn Hồ tọa ở độ cao 1.500m so với mực nước biển. Nơi ấy, khí hậu quanh năm mát mẻ, không khí trong lành. Nhìn tổng thể, cao nguyên như hòn ngọc xanh thẳm lơ lửng ở lưng trời được bọc bởi biển mây trắng như bông tuyết trong ngày nắng ấm, khiến nó trở thành mơ ước của biết bao nhiêu người. Mơ ước được chạm vào, được nâng niu và được giữ gìn như báu vật của riêng mình. Theo người dân địa phương, Sìn Hồ có nghĩa là nơi có nhiều con suối. Trước khi sáp nhập, cao nguyên Sìn Hồ là cả một vùng núi non phía Tây của tỉnh Lai Châu. Dọc theo tỉnh lộ 129, người ta vẫn nhắc nhau về cung đường quanh co như dải lụa mềm nối từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác. Những Phìn Hồ, Hồng Thu, Phăng Sô Lin, Tả Phìn, Làng Mô, Tả Ngảo… chưa một lần phai mờ trong ký ức của những tâm hồn đã gắn bó, đã trót yêu miền non cao mây trắng. Khi cao nguyên gom trọn cả vùng cao với khí hậu đặc trưng ôn đới thì kể không hết được các con suối vẫn ngày đêm thầm thĩ với những cánh rừng nguyên sinh, mang mạch nguồn về tận những nẻo Ma Quai, Chăn Nưa, Lê Lợi… Còn bây giờ, xã Sìn Hồ mới được hình thành trên cơ sở sáp nhập các xã Phăng Sô Lin, Tả Phìn, thị trấn Sìn Hồ và Sà Dề Phìn. Nơi ấy, các con suối lớn vẫn ào ào cuộn đỏ dòng trong những ngày mưa lũ tháng bảy, rồi lại thong dong, tha thẩn trong những ngày đất trời vào thu. Nước từ trên cao đổ xuống tung bọt trắng xóa, tiếng thác ào ào gọi hồn núi từ trăm năm rồi khi hạ sơn, dòng thác trắng ấy lại hóa suối tiên e ấp, dịu dàng đi len dưới những tán rừng già tịch mịch.

Sìn Hồ có bao nhiêu cánh rừng thì có bấy nhiêu trầm tích văn hóa gắn liền với nó. Trong số đó, tôi muốn nói về rừng chè cổ Sà Dề Phìn. Đó là cánh rừng bao phủ cả một miền non xanh thẳm. Nơi ấy, có con thác Vái Dê đã đi qua bao thăng trầm của cuộc đời vẫn tận hiến cho rừng chè  cổ nguồn nước trong xanh, mát rượi, nuôi lớn hơn 1000 gốc chè với tuổi đời cả mấy trăm năm. Những gốc chè mốc thếch, rêu phong được phát hiện ra ở thế kỷ trước, mà như lời già Gió (người được coi là linh hồn của đồng bào dân tộc Mông ở Sà Dề Phìn): Đây là rừng chè mọc tự nhiên, thời Pháp thuộc, người Pháp đi khảo sát và phát hiện ra nhưng để mọi người biết đến chè cổ thì phải kể đến công lao của một người Nhật. Không có tài liệu ghi chép cụ thể, những thông tin truyền miệng được các thế hệ người dân ở Sà Dề Phìn kể cho nhau nghe và giữ lại trong đời sống văn hóa của mình. Có lẽ, nhiều người không biết rừng chè cổ ấy đã gắn liền với biết bao thế hệ người Mông ở Sà Dề Phìn, còn với người dân cao nguyên thì ai cũng biết đó là “vàng xanh” mà người Mông ở đây gìn giữ từ thời tiên tổ đến với đất này. Và cho đến bây giờ, nơi ấy, mạch nguồn văn hóa truyền thống vẫn còn được lưu giữ trong từng mái nhà, góc bếp đến Lễ ăn cơm mới hay Lễ hội Gầu Tào… Cũng vì đam mê với văn hóa truyền thống, bị hấp dẫn đặc biệt với lễ hội của người Mông mà tôi đã có cơ hội được gặp già Gió ở chính rừng chè cổ này. Những gốc chè cổ to đến hai, ba người ôm, cao 5 – 6m vững chãi ở độ cao 1.700m so với mực nước biển khiến cho tôi cứ mê mẩn, mỏi cổ nhìn sơn nữ thoăn thoắt hái chè. Chiếc lu cở gắn trên vai, hai chân trụ chắc chắn trên thân chè, tay níu tay hái, những búp chè non đầy dần khi ánh nắng vượt đỉnh Cát Chùa Sì, lấp lánh hong sương trên tán lá sớm mai. Nẻ đón lu cở chè xuống gốc, vốc tay đưa cho tôi nắm nõn tươi cười: Dám ăn thử không? Thoáng thấy sự lưỡng lự của tôi, nẻ đưa vốc chè cho cả vào miệng nhai ngọt lành. Tôi không phải là dân am hiểu về chè hay sành trà, cũng không uống chè tươi nhưng đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận được vị đặc biệt của hương vị chè cổ. Vị chát thanh ở đầu lưỡi, ngọt nhẹ khi hương vị chè chiếm trọn khoang miệng, rồi đọng lại ở cuống họng vị ngọt hậu đậm đà. Như nẻ động viên: chè cổ không có thuốc đâu, ở trên cao tắm sương nên cũng không có bụi. Ăn luôn được buổi sáng sớm là  “xùa zề” (cây thuốc/thuốc tiên) đấy. Nẻ cười, tiếng cười giòn tan theo chân nẻ lẫn trong nắng mai của Sà Dề Phìn…

Mỗi lần tôi vào Sà Dề Phìn, già lại chống gậy, đưa tôi lên rừng chè cổ hái búp chè non về “nấu ấm chè” đãi tôi. Già không chọn lá bánh tẻ như mọi người mà chọn những búp non ở những cây cổ thụ. Già dạy: Cây non chè cũng ngon nhưng không đậm đà như những cây trưởng thành. Uống chè búp non vừa có vị ngai ngái chát, vừa có vị ngọt thanh lắng đọng… Già dùng chiếc gậy, với một cành chè ngang mặt, vươn tán ra phía mặt trời mọc rồi cẩn thận hái từng búp non chưa kịp thức giấc đón bình minh. Khi trong tay đã lưng lửng búp chè, già lại nhẹ nhàng thả cành về với gió. Với già, cây chè đều có linh hồn riêng, nên thưởng thức tất cả chứ không nên hái một cây. Người Mông ở đây nghĩ, đó là linh hồn rừng, của núi và những thế hệ người Mông đã về Mường Trời trở lại nương náu trần gian cho gần con cháu… Họ thân quen, gần gũi như mây trời, gió núi vậy. Và đợi đến mùa xuân, khi người Mông tổ chức Lễ hội Gầu Tào thì họ trở về chung vui cùng con cháu cho đến khi Lễ hội kết thúc, hạ cây nêu tiễn linh hồn về trời. Vì thế, cho đến bây giờ, thi thoảng tôi vẫn dành thời gian về với rừng, với núi nhưng chưa có cơ hội hái lại những cây chè mà tôi và già đã hái trước đây.

Hái chè xong, tôi lại theo chân già ra suối Vái Dê lấy nước. Già nhắc: Chè cổ Sà Dề Phìn phải dùng nước suối Vái Dê thì mới lên vị riêng được. Nhớ lấy, sau này già không còn nữa cũng biết cách mà thưởng hương trà của núi. Dần dần, tôi mới hiểu, cái vị riêng ấy chính là hồn núi quyện hương chè cổ mà không phải nơi nào cũng có được. Mỗi lần đi lấy nước, già chỉ mang theo một con dao, một quả bầu khô, một bình tông nhỏ. Con dao và quả bầu khô theo già từ thời trai trẻ đi rừng, hái củi, bẫy thú; chiếc bình tông là kỷ vật một thời già rong ruổi theo bộ đội khắp các cánh rừng ở cao nguyên đánh Pháp, rồi đánh Tàu. Đi qua đỉnh Cát Chùa Sìn, nơi cuối đường để sang suối có những bụi nứa xếp hàng ngay ngắn tựa lưng vào vách đá. Già chọn cây nứa đã già, ống gióng dài rồi chặt hai ống đưa tôi cầm: Nước suối Vái Dê đựng trong ống nứa về “nấu chè” thì cứ gọi là uống cả hương rừng. Rồi già chỉ cho tôi chỗ lấy nước suối “ngon nhất”, đó là khi dòng nước vừa ra khỏi cửa rừng để đón nắng. Nước trong như đôi mắt thiếu nữ, giữ được linh khí của trời đất tích tụ trong lòng núi từ bao đời. Đôi bàn tay đã khô như thân chè rêu mốc nâng niu từng giọt nước mát, trong lành khi đổ nước vào ấm để đun. Nước đun sôi sủi tăm, dùng nước sôi trụng qua để rụng bớt “lông” chè, rồi mới đổ ngập búp chè trong chiếc ấm cũ ám vàng óng khói bếp từ ngày nào. Cách uống chè tươi đơn giản chứ không thêm vài lát gừng hay chút đường như ở quê mẹ tôi vẫn làm. Trên bếp, củi tống quán sủ bùng bùng cháy, hương chè cổ lâng lâng theo làn khói tỏa lan trong không gian, đánh thức các giác quan của người say trà…

Bây giờ, già đã về trời. Tôi cũng xa cao nguyên để bắt đầu một công việc mới. Giữa những bộn bề của cuộc sống, tôi vẫn giữ thói quen uống trà mỗi tối. Không được uống hồn núi quyện trong hương chè cổ sớm mai thì tôi thưởng trà cổ như cách để tôi giữ hình ảnh của già, giữ một vùng văn hóa xứ sở tôi đã trót yêu. Tôi nhớ cao nguyên. Nỗi nhớ cắt hình rõ rệt hơn mỗi khi có ai đó lỡ nhắc tên, gọi núi, mơ suối… Sìn Hồ với tôi không chỉ là nỗi nhớ mà đó là ký ức trong veo của một thời thanh xuân tươi đẹp. Và giờ đây, khi nhớ Sìn Hồ, nhớ hương rừng chè cổ lòng tôi lại rưng rưng những xúc cảm đặc biệt dành cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng ấy.

Ngày tôi đến với Sìn Hồ, rất khó để quen với khí hậu bốn mùa có trong một ngày. Còn bây giờ, tôi lại thích cái rét cắt da, cắt thịt mùa đông, yêu những cơn mưa rừng ngày hè, mê cái se se lạnh đầu thu và say đắm cái nắng rộn ràng ngày xuân của vùng cao nguyên đầy khắc nghiệt. Có phải vì sự đặc biệt ấy mà trong đất luôn giữ độ ẩm vừa đủ để cây dược liệu thành hình hài, phát triển tốt tươi và mang giá trị riêng đến với mọi miền tổ quốc bằng một thương hiệu riêng của Sìn Hồ? Nơi ấy, núi rừng vẫn ngày đêm ấp ủ sinh khí mà tạo dược tính riêng cho hương vị chè cổ. Thứ hương vị mang linh hồn của núi, quyện đẫm giọt mồ hôi của người và thấm vị ngọt của dòng suối Vái Dê trên đỉnh Cát Chùa Sì mênh mang nỗi nhớ…

Châm Võ

Đánh giá bài viết 1 Star (1 lượt bình chọn)
Loading...