Hiệp sĩ của người béo – Truyện ngắn của Nguyễn Văn Học

Nhà rộng mà ngột ngạt quá. Mức độ ngột ngạt tăng dần theo mức độ thị uy của ông chồng và cậu con trai. Người đàn bà nhẫn nhịn những lời quát mắng, kiểu không ưng thì đập phá đồ đạc, như thể tất cả những điều đó là cách chồng con giao tiếp với mình. Bà phải khéo léo động viên người giúp việc, cùng mình, phục vụ và chịu đựng tất cả. Chồng, con bà là hai kẻ thừa cân. Vì quá mệt mỏi nên người giúp việc nhiều lần xin nghỉ, nhưng bà chủ giữ lại bằng “đòn” tăng lương. Từ đó chị giúp việc cứ cun cút nhẫn nhịn, dẫu những trận quát mắng nhặng xị, vừa uy quyền, vừa bất lực xảy ra như cơm bữa…

***

Đường vắng, thi thoảng vài cơn gió trườn qua làm hàng cây bớt cô đơn. Nài đứng nép bên đường bấm ngón tay, vung tay vung chân mấy cái cho đỡ mỏi. Một gã đi qua ngêu ngao bài “Nỗi đau muộn màng”. Cô giễu mình và kẻ vừa đi qua: “Đau cái con khỉ! Ta còn phải túi bụi làm việc, nhá!”. Túi rác nhỏ đặt ở lề đường, trước ngôi biệt thự có thể đang vui vì có Nài. Nài gom hết chúng lại, vì cô biết, trong đó là thức ăn thừa, gồm cơm, thịt bò kho, gà luộc, sườn cừu, khoai tây chiên… Cũng có thể là đùi ếch, cá suối nướng, chép giòn, thậm chí là gói mực khô nướng nhưng chưa xé, nhiều thứ xa xỉ mà cô chưa bao giờ được ăn. Cô phát hiện ra căn biệt thự bỏ nhiều đồ ăn thừa từ hai tuần qua. Hôm đầu cô nghĩ, chắc nhà đó có đám. Hôm thứ hai, cửa cổng biệt thự vẫn đóng và những túi đựng thức ăn thừa vẫn đầy. Rồi ngày thứ mười… Cô mừng vì mình còn tìm được thức ăn thừa của mấy căn biệt thự cùng dãy, song nhiều nhất vẫn là căn nhà quen thuộc. Mấy con lợn ở nhà sẽ được đánh chén no nê thỏa thích với rất nhiều dưỡng chất từ những thứ cô chủ mang về.

Căn biệt thự hai tầng giả cổ, với hai màu chủ đạo, trắng và xám nhưng lúc nào cũng hiện lên một dáng vẻ rất thừa mứa. Cuối chiều, sau khi bán gần hết hoa quả, Nài thường lái xe máy qua khu vực này. Giờ đó cô cũng đã gom được kha khá cơm thừa canh cặn. Mồ hôi đã quyện thành mùi đặc trưng vào lần áo, thân thể nhừ mỏi. Nài sẽ từ từ di chuyển về cái xóm xóm nhỏ, ai mua thì bán hết hàng, không thì để hôm sau, lọc bỏ quả hỏng rồi bán cùng hoa quả mới nhập.

Vất vả. Nhếch nhác. Đôi lúc ngẩng lên trời, cô ngậm ngùi tiếc thời đi học. Song vùng ký ức ấy chẳng ở lại lâu, vì cô phải cúi xuống với công việc. Mà công việc này không phải do Nài tự tìm tòi. Từ năm mười ba tuổi, cô đã theo mẹ bán hoa quả rong, tiện thì gom thức ăn thừa về cho lợn. Mẹ Nài nuôi mỗi lứa chỉ vài con nhưng con nào con nấy béo núc ních. Nài cảm giác mẹ rất vui khi được chăm sóc cho hết con này đến con khác. Rồi công việc ấy biến thành niềm đam mê của mẹ.

Từ xóm nhỏ của Nài ra thành phố, nay đã chia thành phường chỉ vài cây số, nhưng mức sống cách nhau một trời một vực. Ở xóm toàn dân biển nên lúc nào cũng cảm giác vắng lặng. Biển lặng lẽ và bền bỉ đấy, nhưng lúc nào gào thét, dữ tợn thì đến điên cuồng. Bởi thế mà biển luôn khó đoán. Đến cách cướp của, giết người của biển cũng đầy bí hiểm.

Bố mất trong ngày biển động và mấy mẹ con Nài trở nên tao tác. Những người đi biển cùng bố bị lốc xoáy đánh úp, nuốt trọn cả con tàu nhỏ, mà trước đó không hề có bất cứ tin gì về chuyện thời tiết xấu. Mẹ Nài đã khóc cạn nước mắt ngóng trông, cầu mong một phép màu mang bố trở về. Nhưng nhiều năm trôi đi vẫn chẳng có phép màu nào, còn mẹ Nài ngày càng tiều tụy. Năm ngư dân mất, chỉ ba người tìm được xác, còn hai người không tìm thấy, trong đó có bố Nài. Khi đó hai em còn nhỏ, thằng bé còn bế ngửa, chả hiểu gì về mất mát, còn Nài hiểu hết nỗi đau và sự hoang mang mà mẹ phải gánh chịu. Bố hơn mẹ mười sáu tuổi. Dân xóm chài đồn thổi bố Nài khó có con nên mẹ cô tặc lưỡi đi kiếm bên ngoài. Đến hai thằng em sau này cũng do mẹ cô đi kiếm. Bố Nài buồn bản thân, nên liên miên đi biển. Nài không muốn biết chuyện của người lớn, càng không tin mẹ làm việc đó, cô mãi chỉ muốn mình và các em là con của bố mẹ. Mẹ kiên cường, nhưng cô hiểu, con người dù kiên cường đến mấy, đứng trước những nỗi đau quá sức tưởng tượng, cũng sẽ trở nên bé nhỏ, yếu đuối. Lo mẹ nặng gánh, nên năm sau Nài chủ động xin nghỉ học để theo mẹ kiếm tiền nuôi hai em trai. Bà nội Nài cũng ốm đau liên miên nên dù thương con, mẹ buộc phải đồng ý với Nài.

Cách nghĩ, ăn nói của Nài già trước tuổi, mười ba mà như mười bảy mười tám với đôi mắt óng ánh trải đời. Khuôn mặt trái xoan của Nài trở nên rắn rỏi hơn sau những ngày rong ruổi cùng mẹ. Trước đây, mẹ Nài đứng bán ở góc chợ Chuôn, khi có cô theo, bà đặt ở đó một sạp nhỏ để con gái đỡ phải đi lại vất vả. Cũng nhờ may mắn, sự khéo léo trong ăn nói nên việc bán hàng của Nài và mẹ thuận lợi. Rồi bà nội cũng về với tiên tổ trong một trận sốt nặng. Ngôi nhà từ đó vắng lặng hơn. Bốn mẹ con dựa vào nhau. Mẹ vẫn bảo tiếc cho Nài, nếu bố còn, cô sẽ được học tiếp và có tương lai chứ đâu phải sớm đôn đáo ngoài chợ đời bụi bặm.

Rồi bệnh ung thư cũng cướp mẹ khỏi cuộc đời ba chị em Nài. Một nỗi đau không gì bù đắp. Một khoảng trống khó lấp đầy. Thiếu mẹ, Nài vẫn không muốn làm việc khác. Cô cứng cỏi tiếp nối công việc của mẹ, bán hoa quả và chăm lợn. Nhưng Nài không thể đạp xe mãi mà dùng xe máy cũ để có thể chở được nhiều hàng hơn, đỡ đày ải thân xác. Có xe máy, cô có thể di chuyển nhanh, lật tìm và tạo dựng mối quen để vừa bán hàng, vừa xin đồ ăn thừa. Cũng may, xóm cô ở nhỏ vắng, mọi người chẳng để ý nhà cô nuôi gì, trồng cây gì và chẳng ai than vãn về tiếng kêu eng éc ồn ào mỗi lúc lợn ngoác họng lên vì đói.

***

Đến cái giờ thấm mệt, như mọi ngày, Nài đến dãy biệt thự, dừng trước căn mà cô đã ấn định ở đó có nhiều mùi thức ăn. Một thế giới thừa mứa của một gia đình siêu giàu. Khi cô lật giở những chiếc túi xanh đen để treo vào xe thì bất ngờ có tiếng vọng ra. “Từ nay cô sẽ treo lên gốc cây sưa, cứ đúng giờ cháu lấy nhé. Làm thế đỡ vương vãi ra đường”. Nài nhìn người đàn bà đứng bên chiếc cổng sắt được thiết kế cầu kỳ. “Cháu cảm ơn bác. Bác để cho cháu xin, cháu sẽ nhận đều ạ”. Bà gật đầu cười, còn ánh mắt thì dán chặt vào Nài. Bà nhận ra đôi mắt sáng long lanh của Nài. Bà mặc bộ váy hoa hồng khá sang trọng, tôn lên vẻ thanh thoát, giàu có. Xong việc, Nài khẽ cúi đầu chào. Khi cô đi khuất bà mới khép lại cánh cửa, đi vào. Gió tràn qua vai, qua tóc. Nài ong ong với câu hỏi, tại sao gia đình đó phí phạm, để nhiều đồ ăn thừa đến thế? Còn những gia đình trong dãy đó nữa. Họ có thể giảm lượng thực phẩm, nấu đủ cho mỗi bữa, nhưng sao không làm? Đằng này, những thứ đồ họ bỏ đi là cao lương mỹ vị mà người lao động như Nài mơ cũng chẳng thấy. Một bữa bỏ đi giá trị bằng cả tuần, cả tháng mua thực phẩm của ba chị em Nài. Họ bỏ đồ thừa thì Nài được lợi, nhưng cô vẫn mông lung về một sự phí phạm thật khó giải thích.

Ngày thứ hai Nài nhận đồ ăn thừa từ gốc cây sưa với niềm hào hứng khó tả. Bà chủ nhà khéo léo để một mảnh giấy có dòng chữ: “Phần thức ăn này, người vẫn còn dùng được, cháu nhé”. Cô mở ra xem kỹ hơn thì thấy trong đó có ba túi, gồm túi đựng gà luộc, chặt sẵn, rắc lá chanh; một túi đựng những con tôm hấp đỏ au; túi còn lại là xôi. Cô thầm biết ơn bà chủ tốt bụng có cái sẹo nhỏ ở đuôi mắt trái. Hôm sau, lúc Nài dừng ở vị trí quen thuộc thì gặp bà chủ nhà đứng cạnh chàng trai ục ịch béo. Anh ta ngồi trên chiếc xe lăn, mặt đờ đẫn, vô hồn. Thấy Nài, mắt anh ta chỉ hấp háy với một quầng tối trên mặt, còn bà mẹ mừng như thể bà đang chờ cô đến. Nài nhìn lên gốc sưa, không thấy thứ gì treo ở đó. Đoán được ý nghĩ của cô, bà chủ nhà bảo hôm nay không treo đồ ở đó, mà để bên trong. Bà giới thiệu mình là Dung, con trai là Hải rồi mời cô vào nhận thức ăn thừa. Cô giúp bà quay xe đưa Hải vào sân.

Đảo mắt xung quanh, cô thấy khoảng sân khá rộng và nhiều cây. Những cây khế, mai chiếu thủy, tùng la hán được uốn tỉa cầu kỳ đủ để làm mát cho khoảng sân và làm duyên cho ngôi nhà. Bên bờ tường là giàn sử quân tử như đang chào cô bằng cách chìa ra từng chùm hoa nhỏ xinh mà rực rỡ với ba màu đỏ nhạt, hồng tím và hổ phách. Một bộ ghế đá kê tựa vào thân cau vua, nép dưới tán khế lúc lỉu hoa và quả. Bà Dung hỏi cô về cuộc sống cũng như công việc hiện tại, mẹ cô đã đi đâu mà lâu không thấy. Bà từng mua hàng của cô ở chợ Chuôn và đôi ba lần mẹ cô chở hàng qua đây. Đang nói chuyện thì có tiếng ho vọng lại từ trong nhà, rồi tiếng cốc thủy tinh rơi xuống sàn, nghe chói gắt.

Bà hốt hoảng chạy vào. Ông Thương, chồng bà ngồi thần thừ, mặt đỏ bừng. Ông phát phì, cơ thể bệu bạo béo nên chỉ thích ngồi một góc, mơ màng nhìn chung quanh. “Khổ quá! Nếu cần uống thứ gì, cứ gọi tôi hoặc cô giúp việc mà, sao ông tự làm?”. Ông Thương trừng mắt, vẻ giận dữ, chẳng nói, cũng không cười. Lúc thấy Nài bước vào, ông hơi sững lại, như thể vì cô quá khác biệt. Ông Thương và Hải mắc cùng một chứng bệnh lạ lùng: Thèm ngắm đồ ăn. Nài tự hỏi, sao người ta có thể để mình to béo, thừa cân đến mức này?

Thật lạ. Bệnh thèm ngắm đồ ăn cũng từ chuyện béo phì mà ra. Lần đó, hai bố con ông Thương bị ốm nặng. Đi khám, bác sĩ nhìn vào những tảng mỡ đắp trên cơ thể họ, phán rành rọt, tình trạng hai người nguy cấp lắm rồi, nếu không ăn uống điều độ cộng với tập luyện hợp lý. Từng lời làm hai bố con khiếp hãi. Càng khiếp hãi thì những tảng mỡ như thể trương dày hơn, như thể sắp vữa ra, bong xuống từng mảng. Làm sao có thể ngừng ăn khi đã sung sướng thả phanh suốt một thời gian dài?

Ngôi nhà như có đám, lo lắng bao trùm. Bà Dung vung tay vào không khí, bảo: “Hai bố con ông phải kiêng khem. Bác sĩ nói đúng, càng nhiều mỡ thì tuổi thọ càng ngắn”. Ông bĩu môi: “Đó là một cực hình”. Nhưng nghe bà Dung và bác sĩ dọa, ông Thương tặc lưỡi bảo con: “Ừ thì kiêng!”

Phải ăn uống kham khổ quả là… quá khổ. Những cáu kỉnh, giận dữ, la hét làm ngôi nhà lúc nào cũng căng như dây đàn. May mà bà Dung cứng tay, rắc thêm những lời dọa nạt lên sự hấp dẫn của đồ ăn, làm chồng con sợ hãi mà bóp mồm bóp miệng. Song, trước đây cả hai đều thích sai khiến, muốn gì được nấy, nên giờ đòi bà Dung phải nấu thật nhiều, ê hề để…ngắm. Thay vì ăn thì ngắm. Ngắm cho sướng mắt. Ngắm cho sang cuộc đời. Có điều, chồng con đòi mấy món bà Dung cũng chiều. Hai bố con ăn theo chế độ kiêng khem khắc nghiệt, người ngợm nhợt nhạt, mặt mũi đờ đẫn. Chừng nửa tháng thì sự thèm thuồng giảm hẳn. Họ “ăn theo cách của mình”. Cả hai chủ yếu yếu rau, củ, và ngồi nhìn từng món ngon nghi ngút bốc khói được xếp ra bàn xoay, nuốt nước bọt cho đến khi chúng nguội ngắt, ắng lặng, rồi có thể, có món được đụng đũa vài lần. Song cái béo chưa bị đuổi đi. Càng béo càng dễ bực mình, nên ngoài lúc ăn ngủ, gã con chỉ ngồi xe lăn có gắn hệ thống nhấn nút hiện đại, và đập phá, trút bực tức lên đầu bà Dung và người giúp việc. Nhiều lúc gã hét lên như một thằng điên, đập bỏ những thứ trước mắt. Có lần gã cầm mảnh bình gốm vỡ tự rạch vào cổ tay. Máu nhỏ vào ga đệm. Máu vãi khắp phòng. Mẹ gã tá hỏa gọi cấp cứu. Lần khác, Hải đấm đá túi bụi vào chị giúp việc, làm chị bỏ việc. Bà Dung lại vất vả tìm người mới…

Kiểu “ăn” bằng mắt trở thành thứ đam mê tốn kém của bố con ông Thương. Một thứ đam mê làm thức ăn bị vứt bỏ ê hề. Bà Dung mời bác sĩ tâm lý trẻ đến nói chuyện, thăm khám nhưng không tìm rõ bệnh. Trầm cảm ư? Rối loạn suy tư ư? Cũng có thể. Nhưng biểu hiện lạ lùng như thế thì bác sĩ chưa bao giờ gặp.

Lúc Nài chuẩn bị ra về, Hải bảo mẹ hãy giữ cô ở lại. Điều đó làm bà Dung và Nài bất ngờ. Ánh mắt mờ đục, đờ đẫn của Hải ẩn chứa nỗi cô đơn sâu thẳm, khủng khiếp. Ánh mắt bà Dung đưa sang Nài, cầu cứu. Một cái gật đầu của Nài đã khiến Hải mỉm cười. Nài dần nhận ra thế giới người giàu có nỗi khổ đau sâu kín, thăm thẳm mà một cô gái chẳng bao giờ lường hết.

***

Nài vào ngôi nhà rộng thênh thang này để giúp việc cho gia đình bà Dung. Hôm đầu tiên, Hải yêu cầu nấu sáu món, còn ông Thương chín món. Họ hếch chân lên bàn giữa gian nhà ăn chờ đợi từng món thơm nức được đưa ra.

Nài được trả một khoản gấp đôi số tiền kiếm được từ việc buôn hoa quả. Phần thức ăn thừa, cô vẫn được mang về nuôi lợn. Trước khi nhận lời, Nài hỏi bà chủ: “Tại sao bác chọn cháu? Cháu cũng chưa quen làm việc này”. Bà Dung cười động viên: “Bác thấy cháu hiền lành, nhân hậu. Vả lại, đó cũng là ý muốn của thằng Hải”. Cô hơi giật mình với câu nói của bà Dung, nhưng rồi định thần lại, cô nghĩ, gã đó cũng sẽ chẳng có gì nguy hiểm cả. Vả lại, kiếm tiền là mục tiêu hàng đầu lúc này.

Hằng ngày, Nài cùng nấu nướng cho cả nhà, đọc sách cho Hải nghe theo yêu cầu của gã, trò chuyện để giúp gã giải khuây.

Tại sao lại thích nghe đọc? Nài hỏi. Sau một lúc càu cạu, gã kể, mình từng tuyệt vọng và chán ghét bản thân. Mấy năm qua, gã chỉ mơ màng trong xó nhà. Lúc ngồi một góc hay lúc ngủ, đầu óc gã bị ong ong rồi như có ai đó xui khiến: mày chả là gì cả, chẳng có gì hết, vậy thì sống làm gì. Hãy chết đi… Nhưng mỗi lần được ngửi mùi thức ăn, gã lại cảm thấy mình không nên chết. Mẹ gã quá nhẫn nại, bền bỉ chịu nhục lo cho hai bố con càng làm gã khát sống.

Hải đòi nằm gối đầu lên đùi Nài. Nài không chịu. Gã quắc mắt, buộc cô miễn cưỡng làm theo.

Gã lại kể. Một lần gã đập phá thì có cuốn sách trên giá rơi trúng đầu. Gã vồ lấy rồi xé vụn. Lúc bình tĩnh lại, gã thấy trước mặt là một trang sách chi chít chữ. Gã xem và ấn tượng vì đầu trang có từ “hy vọng”. “…Sẽ còn những điều kỳ diệu, khi con người còn hy vọng…”. Những con chữ đánh thức gã. Sau hôm đó gã đã đọc hết một cuốn sách mỏng. Dần dần, gã đã đọc hết hơn chục cuốn được xếp trên giá.

Nài chỉ học hết lớp sáu, nhưng đọc lưu loát và truyền cảm, đã hai lần nài khiến gã đàn ông nóng nảy, cục mịch cười. Bước vào những trang sách, Nài như được đặt chân vào thế giới khác, điều mà trước đây cô chưa bao giờ có. Thật tình, đọc sách là điều xa xỉ với cô. Có lúc đọc cô nhớ mẹ và nghĩ về hai em. Thật may, hai em ngoan ngoãn, nhưng liệu có nên cơm nên cháo như mong ước của mẹ? Và bố nữa, có nhân vật cô đọc trong truyện mang nhiều nét giống bố. Liệu có phải bố đang trở về thăm cô bằng câu chuyện trong sách?

Cô chợt nghĩ đến ông Thương. Nài nhận ra ông đã bị những xáo trộn, bất ổn ngoài xã hội làm vơi niềm tin vào con người, nguội lạnh cảm xúc với bè bạn. Nhưng ông Thương vẫn rất giàu. Ông có hai khách sạn trên phố chính, gần bãi biển giờ giao cho con gái trông nom. Ông còn có cổ phần ở một tập đoàn lớn và khoảng chục cái sổ đỏ khác, tất cả đều có bàn tay quán xuyến của bà Dung.

Giàu chưa chắc sướng, nghèo chắc chắn khổ. Bao lần cô nghĩ và tưởng mình khổ nhất thế gian, cho đến khi chứng kiến người không biết mình đang khổ. Cô rùng mình khi bất chợt nghĩ về hai người đàn ông trong ngôi nhà bị “gô cổ” một chỗ bởi bệnh tật. Họ đang chữa bệnh, hay cố thỏa mãn nỗi đau đã lan ra cả thể xác lẫn tâm hồn? Cô không biết. Nhưng họ đang ăn bằng mắt như là một cách để tồn tại. Một cách để tiêu tiền và thấy mình còn có một nhu cầu. Con người ta sợ nhất là chẳng còn nhu cầu, chẳng cần gì trên cõi đời này nữa.

Hải đòi Nài đọc một cuốn sách về hy vọng. Cô luống cuống tìm trên giá sách ít ỏi của gia đình gã nhưng chẳng biết cuốn nào nói về hy vọng. Bực tức, gã hất nước cam lên người, đập cốc trước mặt cô, quát nhặng xị: “Tao đã bảo trên đó hết rồi, mày đi tìm mua đi”. Tủi thân, cô ngồi khóc. Bà Dung chạy vào, thấy mặt mũi Nài nhoe nhoét nước cam. Bà bảo cô đi thay quần áo, rồi nhẹ nhàng khuyên con trai. “Đó là người rất tốt mẹ tìm được để chăm sóc con. Con phải nghe lời cô gái ấy”. Gã trai vung tay, hét toáng, rồi xòe tay phủ mặt, đòi sách về hy vọng.

Cuộc sống nghiệt ngã hơn những gì Nài tưởng. Cô đã cố trở nên mạnh mẽ, và đang cố chịu đựng để kiếm tiền nuôi hai em. Trước khi mất, mẹ dặn Nài phải chăm sóc các em thay mẹ. Nài nuốt nước mắt, xin vâng. Cô hiểu từ đây, gánh nặng sẽ trĩu hai vai mình.

Tối hôm ấy, cô chưa kịp đi tìm mua sách thì bị Hải đập lọ hoa vào đầu. Cú đánh làm đầu Nài vỡ, máu toé ra, phải nhập viện. Cô hôn mê hơn một ngày. Trong hôn mê, cô thấy cả dãy phố là các ngôi biệt thự đầy thức ăn thừa được những người cả nam lẫn nữ, ục ịch béo đẩy từ trong sân ra. Thức ăn lưu cữu lâu ngày phả mùi hôi thối dọc dãy phố. Cô lại thấy những người béo đó đi vào trong, không quay ra nữa. Họ bước đi với hình thù của cái chết. Còn cô, khi lội vào đống thức ăn bốc mùi thì không nhấc chân ra được. Nó đính chặt cô vào sự hôi thối. Cô sợ hãi, giãy giụa, gào khóc. Cô tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường bệnh…

Sau năm ngày, bà chủ đưa cô về nhà. Nài dò tên những cuốn sách nói về niềm hy vọng trên mạng, rồi chạy ra hiệu sách mua về một lô lốc gồm cả tản văn, tiểu thuyết, hồi ký và kỹ năng sống. Trước mặt Hải, Nài cố tỏ ra bình tĩnh, như chưa hề có chuyện gì xảy ra. “Em sẽ đọc từng cuốn cho anh nghe”. Hải gật đầu: “Mày đọc đi”. Còn biết đòi người khác đọc là đầu óc Hải không hoàn toàn xơ cứng. Đọc hết cuốn đầu, Hải không cho Nài đi chợ, nấu ăn mà chỉ đọc cho gã nghe. Gã có chút ân hận vì đã đánh Nài. Nài không biết, bên trong cổng của những căn biệt thự cùng dãy cuộc sống như thế nào? Liệu có những người như Nài đang giúp việc ở đó? Hay có người giúp việc còn khổ hơn, làm nô lệ cho những tảng thịt khổng lồ?

Hải từng suýt học hết cấp ba. Cuối kỳ hai của năm cuối cấp, gã bỏ học theo chúng bạn, liên miên quậy phá, đánh nhau và có nhiều “chiến công” bất hảo. Gã lún sâu vào những cuộc ăn chơi trác táng ngày này qua ngày khác. Đơn giản vì bố gã quá giàu, ngồi một chỗ mà tiền vẫn chảy vào tài khoản. Ông Thương, bà Dung dành gần như cả cuộc đời để kiếm tiền, tiếp khách, làm giàu, chẳng có thời gian quan tâm con. Thằng con của ông bà trở nên khó bảo từ lúc nào, hễ bố mẹ nói động đến là bỏ nhà đi. Từ đó Hải xa con chữ. Cơ thể ngày càng béo, như tích tụ những tởm lợm, rửng mỡ ngoài đời. Càng thừa cân gã càng lười vận động. Cuộc đời đã vo lại, biến gã thành tảng mỡ khổng lồ. Cũng may, chị gái không lạc bước như gã. Hai năm nay, ông Thương về nhà, để công việc cho vợ và con gái lớn lo. Thằng Hải sau một cú ngã xe, gãy chân liền trở nên xa lánh bạn bè.

***

Đêm đen đang vỗ về biết bao mệt mỏi. Đêm đen cộng hưởng cho vô vàn mơn trớn xác thịt. Đêm cũng chứng kiến Nài mệt mỏi ngồi đọc. Cơn buồn ngủ hành hạ, làm mắt Nài trĩu xuống, nhưng gã trai vẫn không buông tha. Bà chủ trở vào bảo gã con, để Nài đi ngủ, mai đọc tiếp. Gã không nghe. Gã gí gí tờ năm trăm ngàn xanh xanh trước mặt Nài: “Mày đọc tiếp đi, tí nữa tao thưởng”. Nài nài nỉ: “Nhưng em quá buồn ngủ rồi anh ơi. Đọc cũng không hay nữa”. Gã rút thêm một tờ nữa: “Tao tăng gấp đôi”. Nài miễn cưỡng đọc thêm chút nữa thì Hải bảo cô ra ngoài. Cô không dám nhận tiền nhưng gã cứ dúi vào tay. Sau hôm ấy, Nài nghĩ cách nhấc Hải ra khỏi xe lăn, đưa gã đi dạo trong khuôn viên. Để giúp gã vận động, cô đưa ra một thỏa thuận, gã phải đi bộ cùng mình trên hè phố, bù lại mỗi tối cô sẽ đọc thêm mười phút. Biết chuyện, bà Dung mừng rỡ, nhờ Nài giúp con bà giảm cân. Một chế độ ăn uống phù hợp, đi kèm tập luyện, tư duy thoải mái mới có thể khiến gã giảm mỡ. Nài đóng vai một bảo mẫu, chăm Hải mỗi ngày và mừng khi thấy sự thay đổi ở Hải. Gã chủ động dậy sớm, rủ cô đi bộ, tập luyện, ngoài lúc nghe đọc sách thì nghe nhạc. Gã như người vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ dài. Trước đây cô chỉ làm bạn với hoa quả, bụi bặm, những lời mặc cả, sự cám dỗ… thì nay, được đánh thức các giác quan khi nghe nhạc, tâm hồn mơn mởn, như vườn cây khô khát gặp mưa.

Với Hải, đó là chuỗi ngày đầy hoan hỉ và ý nghĩa. Có lúc gã nghến cổ thơm vào má Nài. Nài giật ra, phát bàn tay đến đét vào bờ vai múp mụp của gã. Gã tít mắt, bảo: “Mày cũng xinh lắm đấy”. Câu nói của Hải làm má Nài đỏ lựng. Từ trước đến nay chưa có gã trai nào bảo cô như thế. Hải là gã đàn ông đầu tiên nói với cô như thế. Lúc ấy, bà Dung nghe thấy nên đã điều chỉnh con trai. Hải đổi lại cách xưng hô. Gã bảo: “Từ nay gọi là em Nài”.

***

Ngày thì mệt rũ, đêm lại mỏi nhừ. Cô vắt kiệt mình để lấy lại tự tin cho Hải. Mỗi buổi tập tành, mỗi giờ đọc sách, cô đều nhẫn nại, cần mẫn, chỉ để Hải cười nhiều hơn, và bớt ù lì. Tự lúc nào, Hải ríu rít bên Nài và coi đó là một niềm hạnh phúc. Gã từng nghĩ mình là kẻ bỏ đi, bị thôi thúc phải cướp mạng sống của chính mình bằng sự mơ hồ của ý nghĩ… Khi Nài xuất hiện, với nghị lực, đôi bàn tay chăm chỉ và trái tim biết hát, đã đánh thức bản năng trong gã. Gã thích thú khi ở bên một cô gái, Nài cũng thấy mình chưa bao giờ gần con trai đến vậy. Giờ ở bên Hải, một cảm giác khác lạ xâm lấn trong cô. Có lúc, cô đã sờ tay lên ngực mình…

Mùa thu sang, lá dát vàng lên thềm vắng. Chưa bao giờ Nài có cảm giác muốn tan chảy trước một nụ hôn như thế. Chiều bình yên lại đến. Hải chở Nài đi xe ra mé biển. Biển mênh mang thắp màu thu. Sóng rợn màu thu, rì rào kể những điều nhân nghĩa. Lần đầu tiên trong đời Hải thấy một người con gái đẹp đến thế giang tay giữa triền cát vàng, phía sau là biển. Biển mênh mang và diệu vợi…

***

Ông chủ gọi Nài vào. Thì ra những ngày Nài ríu rít bên con trai đã không ngoài tầm quan sát của ông. Thân thể ông vẫn không ngót đi bao nhiêu, và dục vọng trong người vẫn còn trương nở. Ông đòi Nài đọc sách cho mình nghe. Hôm ấy, ông bảo chiếu cố đọc trước cho ông nghe mười phút. Thì chiếu cố. Nhưng hôm sau đòi đọc cả tiếng như đã đọc cho thằng con thì cô khước từ.

– Bác là chủ căn nhà này, và bác yêu cầu cháu.

Ông hằm hằm, nhìn Nài từ đầu đến chân. Trước ánh mắt him híp, đĩ thõa, Nài đột nhiên co rúm.

Những ngày qua, thời gian ù ì trôi đi với ông. Thời gian ù ì trôi với những người trong các căn biệt thự chung dãy. Từ ngày Nài đến làm giúp việc, ông ở hẳn trên tầng hai, làm bạn với ban công và sự im lặng, chỉ đến bữa mới bám thành lan can cầu thang bộ đi xuống, giờ ông lại đốc chứng muốn nghe đọc sách.

– Thế nào? – ông gắt – nếu không thì nghỉ việc. Bác coi cháu như hiệp sĩ. Đúng, hiệp sĩ chữa béo nên bác đề nghị cháu chấp hành!

Thường ngày, Nài vẫn có một giờ đồng hồ để mang thức ăn thừa về cho mấy con lợn. Giờ cô thấy bất tiện khi chỉ cho chúng ăn bữa đực bữa cái, hoặc thức ăn để sẵn ở máng, thi thoảng chúng nhởn nhơ vài miếng. Ăn không ra bữa thì làm sao lớn nhanh! Nhưng bù lại, tiền công bà chủ trả cho đều đặn, hơn cả mức bà đã thoả thuận, số tiền đó giúp cô chăm cho hai em. Giờ ông chủ dọa đuổi việc, cô phải làm sao!

– Mày sợ thằng Hải chứ gì? Cứ làm theo ý tao đi – ông đổi cách xưng hô – nó chỉ là con tao.

Thấy to tiếng, Hải lạch bạch bước vào.

– Bố làm gì cô ấy thế?

– Tao chẳng làm gì. Tao chỉ bảo nó phải đọc sách cho tao.

Giọng ông khê đặc, có phần lúng túng trước thằng con. Còn Hải, từ lâu đã chẳng kính bố, thì việc tranh giành người gã quý mến khác nào muốn tước đi mạng sống của gã. Gã lắc đầu phản đối. Sự phản đối của Hải được Nài cổ vũ bằng một cái gật đầu. Trước hai đứa trẻ, ông Thương trợn tròn mắt. Ông hét toáng gợi vợ với hy vọng bà sẽ bênh vực mình. Ông giả vờ thở, héo hắt, bệ rạc. Hải và Nài tránh ra để bà bước vào. Bà định sạc cho ông một trận, nhưng nhìn cái cơ thể ục ịch đầy mỡ kia, bà lại dịu xuống, nhỏ nhẹ. Bà bảo Hải và Nài ra ngoài, còn mình ở lại nói chuyện.

Lúc sau, ông nổi khùng, đập đồ rồi hét lên, đuổi bà ra ngoài. Tối ông không xuống nhìn đồ ăn. Hải cũng chỉ ăn chút ít rồi về phòng đóng cửa. Ngôi nhà lại trở nên căng tức.

Sáng sau, bà Dung vừa dậy thì có người đến báo ông Thương bị tai nạn, đang được đưa vào bệnh viện đa khoa. Trời ơi, ông đi đâu để đến mức bị tai nạn?

Bà lao lên phòng ông, không thấy, chạy sang gọi Hải. Nài hớt hải chuẩn bị xe máy để đưa bà đi.

Thì ra, vì quá bực dọc, ông tự dậy mở cổng, lạch bạch một mình đi trong đêm đen. Ông bước chầm chậm, vô định. Ban đầu ông được hít hà sương sớm. Mấy năm qua, cảm xúc trong ông bị tận diệt. Của ngon vật lạ chẳng được thưởng thức, chỉ được ngắm nhìn, vị giác hoàn toàn bị cầm tù. Cái hứng khởi, sảng khoái trong ăn uống sinh hoạt bị cầm tù. Giờ ông thấy đi như thế này lại hay. Đi để đày đọa mình, đày đọa vợ con, như thế ông thấy vui một chút vì mình còn có thể làm họ đau. Cơ thể quá nặng, ông vừa đi vừa nghỉ, thở dồn dập hơn. Mãi rồi cũng đến bờ biển. Ông hạ mình xuống cát, chẳng biết chúng có vỡ nhỏ hơn không, nhưng sóng đang chẻ ông ra thành nhiều mảnh. Ông bỗng rùng mình ớn sợ. Cái lạnh xâm lấn, tiếng sóng vây bủa, sự cô đơn ào tới. Ông đang ở đâu trong cõi người?

Quá lạnh nên ông cố đứng dậy. Ngồi bệt xuống rồi đứng dậy là một cực hình. Nhưng ông đã đứng dậy được rồi. Ông hậm hực vì cả nhà không chịu chiều lão già. Thay vì chỉ đọc cho thằng Hải, thì cho ông nghe vài phút cũng được chứ sao. Nhưng bà vợ lại bảo, bọn trẻ đang yêu nhau, phải tác thành cho chúng. Người lớn chen vào sự đọc của chúng là không nên. Nghĩ cay mũi, ông bực mình vung tay: “Cái gì mà không nên mới chả có nên!”

Ông bước lại con đường cũ, trong vô định, nhập nhoạng ánh đèn. Rồi bỗng có tiếng phanh kêu kin kít. Tiếng va chạm. Tảng thịt vĩ đại bị hất văng, nã xuống đường. Ông không biết gì nữa…

***

Thoát chết, nhưng toàn thân ông chi chít vết thương. Bà Dung quặn đau. Bà ân hận vì mình đã nói hơi nặng lời với ông. Ông tuy to xác, nhưng giờ chẳng khác nào giọt sương trên lá. “Ông ơi, ông mà chết đi, tôi biết làm thế nào?”. Bệnh viện đưa ông Thương vào phòng chăm sóc đặc biệt. Những ngày ở viện, Nài phải chạy đi chạy lại chuẩn bị đồ ăn nước uống, chăm ông, chăm bà, và cả cậu chủ. Trong đau đớn, mê man, ông hay lẩm bẩm: “đọc sách… đọc sách”. Bà Dung thắt lòng nhìn chồng, bất lực.

Chừng nửa tháng, ông được cho về nhà. Bà Dung chi tiền, mời luôn một bác sĩ mỗi ngày đến xem tình hình cho chồng một lần. Dãy biệt thự có một ông béo vừa qua đời, không khí lạnh lẽo, buồn thiu. Ông Thương vẫn không từ bỏ yêu cầu được đọc sách. Nài nhìn bà, rồi nhìn Hải. Hải lắc đầu quay đi, còn bà Dung, như thể muốn vét nốt cái vốn bền bỉ, sự nhẫn nhịn đang ứ nghẹn trong lòng để chiều chồng. Bà bảo ông bình tĩnh, rồi quay ra làm tư tưởng, dỗ dành Hải. Thấy con phụng phịu gật đầu, bà biết, nó sẽ nể ông bố đang lẫn lộn mọi thứ kia mà cho Nài chiều ông.

Nài ngồi vào ghế, mở sách. Cô vừa đọc vừa sợ. Được mười phút thì Hải lao vào, lôi Nài ra ngoài. Hành động ấy làm bà Dung sững sờ còn ông Thương như thể sắp khóc. Ông muốn bật dậy, tát cho thằng con láo xược một cú, song những tảng mỡ và vụ tai nạn trước đó đã ghì chặt, làm toàn thân ông bất lực.

– Hải ơi, mẹ xin mày – bà Dung nài van – hãy thương bố mà nhường ông ấy tí chút. Giờ ông ấy như ngọn đèn trước gió…

– Không. Dứt khoát không. Nài đang quý con, con không muốn nhường.

Lúc này, Nài giật tay, thoát khỏi Hải. Gã làm cổ tay cô bầm đỏ.

Từ hôm ở viện về, ông Thương không đòi hít hà đồ ăn như trước nữa. Hằng ngày, bà Dung đút cho ông ăn theo chế độ đặc biệt mà bác sĩ dặn. Ông tự cấm khẩu một tuần. Những ngày đó, dường như lúc nào mắt ông cũng ngân ngấn nước. Nài đã xin nghỉ, trở về với nghề bán hoa quả, dẫu bà Dung dỗ dành hết nước hết cái. Vắng cô, khu nhà trở nên ắng lặng, lạnh lẽo nhất là phòng ông Thương nằm. Một sáng trở dậy, bà Dung thấy chồng mình quỳ thụp giữa phòng, trước một đống tiền và vàng, nước đái thấm ở quần, lan ra những miếng màng lấp lánh. Thì ra ông cố trở dậy, bò ra chỗ két sắt, mở khóa, moi tiền, vàng ra. Vừa cố được mấy bước thì do cơ thể quá nặng, ông khuỵu xuống, không di chuyển được nữa.

Bà Dung bật điện sáng, ập ra đỡ chồng, nhưng sức bà không thể nâng được ông lên.

– Khổ quá, ông định mang những thứ này đi đâu?

Gặng hỏi mãi, cuối cùng ông thều thào, như khóc:

– Đi tìm… tìm người đọc…

Bà Dung gọi Hải và chị giúp việc mới vào đỡ chồng. Ba người khó nhọc thay quần, rồi đưa ông lên giường. Ông òa khóc, như một đứa trẻ.

– Gọi hiệp sĩ về đây. Hiệp sĩ đâu rồi?

Bà Dung hốt hoảng, hỏi lại:

– Ai? Hiệp sĩ gì?

– Con Nài chứ còn ai!

Bà Dung lắc đầu: “Khổ, đúng là khổ quá!”./