GÃ NHẶT RÁC – truyện ngắn của ĐẶNG NGỌC TAM GIANG

1.

Người đàn ông nơi bãi rác tự phát của xã hiện lên như một sinh thể ký sinh, một bóng người lầm lũi “đậu” vào đống phế thải để bươi, bới, móc, nhặt… ve chai mà sống. Người ta quen gọi đó là “gã nhặt rác”. Không ai biết gốc gác từ đâu, cũng chẳng mấy ai muốn đến gần để hỏi han hay dòm ngó. Hằng ngày, người ta lướt qua, vội vã và dè chừng, có người còn che miệng, siết chặt thêm lớp khẩu trang như tránh một thứ dịch bệnh ghê tởm hay vô hình nào đó. Có ả đi qua, nhăn mặt, khạc nhổ, thậm chí nôn oẹ…

Một đêm, như bao đêm cũ, gã lại tựa lưng vào nền gạch hoa rệu rã của ngôi mộ hoang để tìm giấc ngủ. Hôm nay, giấc ngủ đến sớm, đến nhanh. Chỉ độ mươi phút sau, gã đã thả tiếng gáy “khù khù” đều đặn, hoà lẫn trong bản nhạc u trầm của giun dế vọng lên từ đất đá nghĩa trang.

Người đàn bà thoắt ẩn, thoắt hiện. Gương mặt chìm khuất sau lớp khăn trùm. Không rõ nét, chỉ thấy dáng gập xuống, nén tiếng nấc. Chị liếc nhìn quanh. Bóng tối trùm xuống dày đặc. Vài con đom đóm bay lượn, lặng lẽ như lũ âm binh. Chị đặt xuống một vật tròn, chiếc chăn cuộn lại thành gối. Đứng dậy. Chân khuỵ. Lại gượng. Rồi bỏ chạy, chị không ngoái lại, mặc tiếng trẻ con khóc thét phía sau.

Một tiếng gọi vẳng lên từ đâu đó:

– Dậy, dậy!

Lạnh. Khô. Như tiếng đập vào nền đá. Gã giật mình, tỉnh dậy. Tai còn vọng tiếng: “Hãy cứu đứa bé, sau này sẽ có ích…”. Lời mơ hồ. Mộng hay thực? Không rõ. Gã dụi mặt, đứng dậy. Nhìn quanh. Gió lạnh từ mái che ngôi mộ lùa vào. Sương đọng trên tay.

Không do dự, gã bước hướng về bãi rác. Gió lùa bên tai, nghe như có tiếng trẻ con. “Không lẽ…”, thoáng nghĩ rồi bước nhanh hơn.

2.

Người ta bắt đầu để ý: dạo này gã nhặt rác đìu theo một bọc vải trước bụng. Một người đàn ông chở rác tới, cố nán lại. Hắn lên tiếng, không khách khí:

– Mang gì nặng vậy?

Gã ừ hử, giọng khàn. Không ngước nhìn, vẫn cúi xuống bới rác. Người kia bước tới gần, cúi nhìn.

– Đứa bé à?

Gã gật đầu.

– Con sao?

Lại một cái gật.

Người đàn ông thở dài khó hiểu, bước lên xe đề máy, vọt chạy. Gã dừng tay. Lặng lẽ bế đứa bé lên nhìn. Mặt đứa nhỏ trắng xinh. Mắt đen tròn, môi mấp máy. Cái miệng hồng mấp máy như đang đòi bú.

Gã thấy thương và nghe xót, suy nghĩ rồi đặt đứa bé dưới bóng gốc cây gần đó. Tay bới đào nhanh hơn, ý thức muốn kiếm tìm một thứ gì đó.

– Đây rồi. Sữa!

Một lốc sữa. Quá hạn ba ngày. Gã bóc ra, cắm ống hút và uống thử. Nuốt. Không sao. Gã chạy lại chỗ đứa bé.

Đôi môi đứa bé chúm lại, ngậm vào ống như đang bú bầu sữa mẹ. Gã đưa tay áo quệt mồ hôi, hình như quệt luôn cả dòng nước mắt. Những giọt nước mắt sâu thẳm trong tâm tư từ bao giờ đã khô cạn, giờ như bất chợt sống dậy. Nắng trưa xuyên qua kẽ lá, rơi lân tinh xuống chỗ ngồi. Những tia nắng trở thành từng giọt, từng hạt vàng óng.

Lũ ruồi nhặng đậu chán lại bay. Chúng bay đi tìm chỗ khác, tìm nơi đâu đó có thể bâu vào. Hễ đậu là “rức rỉa”, là hút, liếm… Môi đứa bé cũng bị chúng đậu vào. Gã chợt bật tiếng: “Ruồi!” Nói xong, gã bỗng thấy nhớ lại đêm qua bị muỗi đốt. Miên man về những điều có thể bảo vệ mình và cả đứa bé.

Một chiếc chăn sờn, một tấm chiếu cũ nhàu và cái mùng rách ba lỗ. Tất cả được lôi ra từ những đống rác. Trưa hôm đó, gã đem chúng ra giặt. Con hói nhỏ, nhưng nước trong veo, mát rượi. Gã tắm cho mình, rồi vốc nước tắm cho bé. Đứa bé cựa mình, đôi tay quẫy nhẹ như muốn cười mừng. Từng bước chân quay về nghĩa địa, băng qua triền đê, lòng mênh mang nghĩ ngợi. Mùi hương từ cánh đồng đang thì ướm đòng theo gió thoảng qua, dìu dịu. Gã vừa đi, vừa như lạc trong những dòng suy tưởng mơ hồ. Bụi tre cuối làng. Tôn cũ. Cái giường…

3.

Hằng đêm, dưới mái lều tôn gần nghĩa địa, cách bãi rác cuối làng không xa. Người ta nghe giọng người đàn ông khàn khàn vẫn đều đều ru con. Ngày qua ngày, đứa bé theo gã ra bãi rác. Nắng cũng như mưa, một già một trẻ sống bên nhau.
Con lớn lên hại bầu sữa mẹ/ Mẹ bình yên khi được tiếng con cười…” Dù chẳng phải máu mủ, vẫn xem bé như con ruột. Một phần tâm trí, một phần đời sống và tất cả những ước mơ còn lại, gã gửi gắm nơi bé.

Gã nhặt nhạnh những món đồ chơi hư hỏng, mang về sửa lại: một con gấu bông xám nhàu, một chiếc ô tô nhựa còn ba bánh, một khối rubik bạc màu… Vài chiếc kẹp mất nơ, đôi dép hai màu, giày ghép từ hai chiếc khác nhau. Có cả chiếc váy, chiếc áo thun… Mọi thứ đều “cũ người mới ta”; “Áo rách khéo vá còn hơn lành vụng may”.

Bé lên hai đã biết gọi tên người. Tiếng “cha” vang lên thân thương, khó tả. Giọng gã vốn đã khàn, nay như khản đặc. Có lúc nghẹn nơi cổ họng. Lên ba, bé biết nói chuyện, biết mặc váy đẹp, biết hỏi những điều khó trả lời: “Nắng từ đâu mà có?”. Sao trời phải mưa?”. “Mặt trăng là ai?”. “Có bao nhiêu vì sao?” “Người ta ngoài đồng đang làm gì?”, “Mùa này là mùa gặt hả cha?”. “Sao cha không làm ruộng như họ?”. “Nhà mình sao không ở trong làng?”

Một hôm, gã mang về một con chó con có lông vàng. Bé mừng rỡ, ôm lấy nó suốt buổi chiều. Bé đặt tên là Vàng.

– Chị tên An, em tên Vàng hí?

– Căng! – Con chó kêu.

– Ừ à… Vàng ngoan, ngoan, chị thương!

Từ ngày có con Vàng, An ở nhà chơi với nó, còn gã đi bới rác một mình. Một hôm, gã đẩy chiếc xe hai bánh tự chế về, vọng ra từ trong lều tiếng “dạy học”.

An đang cầm một tờ giấy nhặt được đâu đó, có in vài chữ cái. Bé giơ lên trước mặt con Vàng, nghiêm trang đọc:

– O!

– Căng!

– A!

– Căng!

Gã đứng lặng trước hai “cô trò” ấy. Lớp học chỉ quanh quẩn mấy chữ O, A, B, C mà mấy hôm trước gã viết trên nền đất dạy cho bé… và tiếng “Căng”. Mắt nhòe đi. Gã nói một mình: “Sắp đến tuổi đi học rồi.” Gã nghĩ đến tờ giấy khai sinh. Nghĩ đến ngôi trường làng. Không biết trường có nhận người không hộ khẩu, không nhà không? Gã lại nhớ đến ông giáo về hưu trong làng, người từng nhiều lần giúp đỡ. Chính con chó Vàng cũng là do ông cho.

Đêm ấy, gã trằn trọc mãi và nhìn An rồi lại bước ra ngoài nhìn trời, nhìn sao. Bất chợt, từ xa, có ánh đèn xe máy chạy tới và tắt vội. Một dáng người lặng lẽ tiến về phía mái lều. Cái bóng ấy đứng lại trong phút chốc, rồi quay lui. Trong khoảnh khắc ánh sáng đèn vụt qua, gã như nhận ra… một dáng người phụ nữ.

4.

Cuộc sống của hai cha con, dù thiếu thốn, khắc nghiệt, thậm chí chỉ như thứ rác rưởi bị đời bỏ lại nhưng vẫn là một cuộc sống. Khi hay tin Ủy ban xã giải tán bãi rác, gã bỗng thấy hụt hẫng. Gương mặt chùng xuống, nỗi lo hiện rõ. Cơ thể như dài oằn ra trong bóng tối, đôi mắt trũng sâu thêm. Gã ngồi tựa lưng, ánh nhìn hướng về bãi rác cũ, rồi xa hơn – làng xóm đang rực sáng đèn điện. Gã nhớ lại câu nói của An: Khi nào lớn, con sẽ thắp điện sáng cho nhà mình.” Gã bật cười khẽ, lòng chợt ấm lên: “Chính con là ánh sáng của đời cha rồi…”

Ánh sáng và âm thanh là hai thứ luôn truyền năng lượng mạnh nhất. Giọng người đàn bà vang lên từ chiếc loa Karaoke, xen lẫn tiếng chó sủa, rồi tiếng gà gáy sớm trong đêm.

– Cha ơi, sao cha chưa ngủ? – Giọng An vang lên trong màn đêm, tay khẽ níu lấy tay cha.

– Ừ, con ngủ ngoan đi. Cha chưa ngủ được… – Gã đáp, giọng khàn khàn, chậm rãi. Đồng thời gã đưa tay vuốt nhẹ mái tóc đứa con nhỏ.

An đưa tay vỗ về con Vàng, rồi xoay người ôm chặt con gấu bông:

– Con ngủ đây, cha cũng ngủ nghen!

– Ừ, được rồi, cha ngủ…

Gã nghiêng người xuống chiếu. Giấc ngủ kéo về. Trong cơn mơ chập chờn, gã thấy mình là một đứa bé mười ba tuổi đang tung tăng giữa cánh đồng rơm rạ, rồi hóa thành chàng trai đôi mươi phóng xe vun vút trên quốc lộ. Bất chợt: “ầm”, một khoảng tối ập đến. Quay quờn. Đau nhức. Trước mắt là một thế giới trắng xoá. Một người đàn ông lạc đường. Một kẻ ngồi ăn xin…

Sáng hôm sau, rất đông quân nhân và máy xúc, xe cẩu, xe tải… người ta đến giải tán bãi rác, giải phóng mặt bằng. Gã đứng từ lều nhà mình nhìn ra bãi rác mà lòng buồn khó tả. Phải chăng miếng cơm, manh áo, sữa của An, đồ chơi. Nói cách khác là nguồn sống của gia đình gã giờ không còn nữa. An nhìn cha. Con Vàng nhìn bé. Gã thấy cuộc sống tương lai như khó khăn hơn, khắc nghiệt hơn. Cha con gã phải “xê dịch” nơi khác. Ý định qua hỏi ông giáo về giấy tờ cho An đi học lại thêm xa vời… An thấy cha buồn. Bé định hỏi điều gì đó nhưng không dám. Chỉ con Vàng là cứ vẫy đuôi tung tăng, liếm láp.

5.

Ba giờ sáng. Chợ Bến đã bắt đầu nhộn nhịp. Ánh đèn pin loang loáng như những vệt sáng lạc giữa sương mù, chiếu lên những gương mặt lấm lem nhưng đầy mong chờ. Nơi đây là điểm giao thoa của miền sông nước và đồng bằng, nơi cá tôm từ đầm phá, sông hồ đưa về, mang theo nhịp sống tảo tần của bao phận người.

Người bận bán, kẻ vội mua. Tiếng mặc cả lao xao chen trong hơi sương lạnh sớm mai. Những chiếc giỏ đựng cá khua nước, những tay gánh oằn vai, những vòng quay xe đạp, những tiếng máy nổ… tất cả như một vở kịch bước ra thành cuộc đời. Nó được lặp lại mỗi sớm mai.

Nhưng chỉ cách đó chưa đầy hai mươi mét, trong một góc tối giữa nền đất cát rác và gỗ mục, có một đứa bé ngồi co ro, khóc rấm rứt.

– Cha ơi… cha! Dậy đi cha! – An lay người cha, bàn tay nhỏ run rẩy. Bé kéo chiếc áo cũ trong bị hành trang ra, cố gấp lại làm gối, rồi nhấc đầu cha lên đặt vào kê.

– Cha à… Sao cha nằm dưới đất lạnh vậy? Cha ơi… Đừng ngủ nữa mà!

Gã không cử động. Hơi thở nhẹ đến mức tưởng chừng tan vào sương mai. Gương mặt gã nhợt nhạt, đôi môi khô khốc, một vết máu nhỏ khô lại bên mép. Gã không tỉnh dậy nữa.

– Con sợ lắm, cha ơi… Cha sao ngủ mãi… – An thì thầm trong nước mắt, rồi gục đầu lên ngực cha, nức nở. Gió lạnh buổi sáng quét qua, những hơi sương từ đầm phá rụng vương trên tóc, trên áo, mặt mày

Không ai nghe thấy. Không ai để ý.

Chợ Bến vẫn lao xao tiếng người.

Con Vàng quanh quẩn bên cạnh, mắt chớp liên hồi, rồi chồm lên gã vài lần không thấy động tĩnh, nó liếm vào tay. Không được. Nó quay sang An, dụi mõm vào mặt bé. Bé vẫn khóc. Con chó vểnh tai, đứng thẳng người. Bất thần, nó chạy đi, sủa vang về phía những ánh đèn ở chợ.

– Con chó đâu ra đẹp nè! – Một cô gái trong nhóm đạp xe thể dục ghé thăm chợ lên tiếng.

– Ủa, coi chừng bị hiểu lầm đó, chó nhà ai á! – Một người khác trêu.

– Cưng ghê chưa… tội nghiệp chưa, nhưng sao nó sủa!

Con Vàng vẫn sủa. Nó hết quay đầu nhìn cô gái rồi quay lại phía bãi đất trống, nơi có bóng người nằm bất động khuất sau chiếc gọ (tàu nhỏ) cũ.

– À, a… hình như có chuyện gì á! – Cô gái nói rồi rảo bước theo con chó.

Ba người khác trong đoàn cũng nối gót. Tiếng sủa của con Vàng giờ đây thành tiếng ấm ừ, căng căng… âm thanh như một lời kêu cứu và mừng rỡ.

Họ đi nhanh về phía chiếc gọ. Ánh đèn pin lia tới, dừng lại nơi có một đứa bé nằm co quắp, đầu dựa vào ngực người đàn ông bất tỉnh. Bé không còn khóc nữa, chỉ còn tiếng nấc thỉnh thoảng vang lên trong im lặng.

6.

Người ta gọi xe cấp cứu. Tiếng còi xe hú, réo. An đòi theo nhưng bị từ chối. Bé được dì Thương ở gần chợ cho vào nhà ở lại. Tỉnh giấc với khung cảnh lạ hoắc, tầng nhà gắn máy quạt quay đều, hai dãy giường bệnh đều có người và tay đeo dây bầu nước, gã bất chợt gọi An. Đúng lúc đó có cô y tá đi vào. Cô kể lại mọi chuyện.

– Cảm ơn nhưng tôi muốn trở về tìm con tôi, không biết giờ nó… – Gã ngồi dậy.

– Khoan khoan, An đây rồi! – Chính cô gái đạp xe lúc sáng đã đưa bé vào viện.

Hai cha con ôm nhau mà khóc. Trong phòng có nhiều chị, dì thấy vậy cũng cảm động. Cô gái đi ra ngoài hành lang bệnh viện gọi điện thoại khá lâu rồi quay lại. Cô nhỏ nhẹ:

– Cháu đã tìm hiểu hoàn cảnh chú và em lúc sáng rồi! Giờ chú định đi đâu?

– Tôi chưa biết đi đâu mà đâu cũng được nhưng chỉ mỗi… – Giọng gã khàn và nghẹn.

– Chú lo cho cháu phải không? – Cô gái nhìn sang An. Bé đang ngồi níu áo cha mình.

– Ừm… – Gã gật đầu.

An có vẻ lo sợ, bé gần như miếu, nói:

– Cha ơi, đừng bỏ con. Con ở với cha mãi thôi. – Bé níu tay người cha như sợ sẩy mất.

Sau khi ra viện, gã được nhóm thiện nguyện thuê cho nhà trọ gần khu nhà máy gạch tư nhân do bố cô gái đạp xe hôm trước làm chủ. Gã được phân cho làm bảo vệ kiêm vệ sinh ở nhà máy. An được làm làm giấy khai sinh và định hướng sẽ cho đi học sau khi qua hè ở trường gần trọ.

Đêm đầu tiên ở nhà trọ. An nằm gối đầu lên tay cha mà thỏ thẻ. Hai cha con nói chuyện hồi lâu rồi mới ngủ; giấc ngủ ngon lành đến lạ.

Xe cẩu, máy xúc gầm rú như những con quái vật thép cào bới bãi rác. Từng cuộn khói bụi bay lên, lẫn vào nắng sớm, thành một màn mờ cay xè đôi mắt.

Đốt một nắm nhang thắp lên mấy ngôi mộ rồi băng qua bãi rác, gã dắt An đến trường. Gã cúi xuống buộc quai giày cho con gái rồi xốc lên lưng chạy, con Vàng cũng chạy theo. Họ chạy nhanh tới mái trường. Hình như trong tâm thức nếu không nhanh ắt sẽ trễ, sẽ mất cơ hội. Từng bước chân gấp gấp nhưng hồ hởi, vui nhộn. Họ lướt qua một bóng người đàn bà, lướt qua đôi mắt ướt nhìn theo.

Tiếng trống trường vừa vang lên.

Gã thức giấc, ngồi dậy nhìn con hồi lâu. Trong lòng bỗng dâng lên một cảm giác bình yên đến khó tả. Nụ cười tưởng như đã mất từ lâu giờ lại thấp thoáng trở về trên gương mặt gã cũng như ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn đường, từ bóng đèn neon trong nhà máy hay từ một nơi nào khác. Ánh sáng từ tình người chăng?

Đ.N.T.G

Đánh giá bài viết 1 Star (2 lượt bình chọn)
Loading...