ĐƯỜNG TRẦN – Truyện ngắn của Hồ Ngọc Vinh

Chị ơi, dù mẹ em nói, em không phải là con của bố Lâm, nhưng em vẫn mang họ Đinh. Em là người nhà họ Đinh. Lần này em ra đây, muốn mời các chị, các anh, em con chú, con bác tới dự đám cưới của em diễn ra vào ngày 6.9 tới đây. Tiến nói khẩn khoản, khuôn mặt lộ vẻ xúc động, trên khóe mắt Tiến những giọt nước mắt trào ra lăn xuống má. Tiến gạt nước mắt, không muốn thể hiện xúc cảm ủy mị lộ ra trên gương mặt, lấy lại vẻ cương nghị, rắn rỏi, nhìn tôi như dò hỏi.

Tôi nhìn Tiến, vừa đồng cảm vừa cảm thấy xót thương. Trong 3 đứa con của chú tôi, chỉ có Tiến là giống chú tôi nhất: Khuôn mặt vuông vắn, đôi mắt long long và lông mày rậm, cái miệng, cái mũi, giọng nói và cả dáng người nữa. Nhìn Tiến biết ngay là con bố Lâm, dòng họ Đinh nhà tôi. Như thế tức là tôi với Tiến là con chú con bác ruột, anh em thúc bá với nhau. Người làng vẫn nói. Chỉ có Tiến là con đẻ của bố Lâm thôi, còn 2 đứa kia, một đứa con riêng của thím Hải, một đứa có lẽ cá vào ao ai, người đó nhận. Vả lại chú Lâm  vốn dễ tính, chấp nhận tất, chẳng nề hà gì, cũng coi chúng như con luôn. Có lần bố tôi từng tỏ ý không bằng lòng, trách chú, con đen đầu thì bỏ, con đỏ đầu thì nuôi. Tôi thấy ông thật lạ. Chú Lâm nói: Bác nói thế không phải. Đứa nào em cũng coi như con.

Nhìn Tiến, tôi bỗng nhớ vào một buổi chiều mùa đông, lúc đó cả đất nước gặp nhiều khó khăn, gió thổi hun hút man dại trên cánh đồng làng, mưa lâm thâm,  rét giá, con đường liên thôn, liên xã quanh co, qua làng nọ, làng kia, có lúc chạy ngang qua cánh đồng, lầy lội do mưa lâu ngày, tôi gặp mẹ của Tiến trên đoạn đường qua cánh đồng Cỏ eo. Thim gánh một gánh phong trần, một bên là thằng Tiến mới được gần hai năm và bên kia là chút ít đồ đạc.

Lúc này mưa ngớt và bỗng nhiên từ phía tây, mặt trời đỏ ối nhô ra khỏi đám mây xám chốc lát rồi lại khuất vào mây, chìm vào dãy núi mờ mờ xanh, hắt lên từ chân trời những tia nắng vàng yếu ớt, không đủ xua đi khí lạnh chiều tà. Thím Linh khuôn mặt thất thần phờ phạc, quần bằng vải lĩnh đen bạc thếch ống thấp, ống cao, cái áo bằng vải Phin màu cháo lòng dăn dúm, dáng người tiều tụy, dường như chỉ muốn đổ vật xuống mặt đường nhấp nháp nhầy nhụa.

Tôi hỏi thím Linh: Thím gánh thằng bé đi đâu hả?

Thím Linh: Thím phải về ngoại.

Tôi hỏi: Sao thím về ngoại vào lúc này? Trời tối rồi, và mưa lại bắt đầu nặng hạt.

Thím Linh bất chợt sụt sịt khóc nói: Thím không thể ở với chú Lâm cháu được nữa. Không thể ở với ông ấy được nữa!

Cả người tôi bỗng chốc run lên vì đồng cảm với thím, vì thương thím. Tôi nhìn đường trần quanh co, nhão nhoét bùn đất, nhìn thím, nhìn thằng Tiến ngồi trong cái sọt xung quanh người  được quấn đủ vải, áo để chống rét. Tiến ngồi đó, đầu nó đội cái mũ vải bông trùm cải hai tai. Tiến nhìn tôi, nhìn mẹ, đôi mắt nó vẫn long lanh. Nhưng tôi  lập tức liên tưởng, đôi mắt ấy ngạc nhiên không hiểu mẹ nó sẽ đưa nó đi đâu khi trời bắt đầu tối và gió rít từng cơn man dại trên đồng làng.

Tôi bỗng nhớ tới những lần thím Linh bế thằng Tiến lên nhà tôi chơi. Có lần khi nói chuyện với bố mẹ tôi, thím khóc sụt sịt, mắt hoe đỏ. Tôi nghe thấy bố động viên thím: Thím yên tâm. Tối sẽ nói với chú ấy.

Mẹ tôi nói: Nhìn thằng bé thế kia mà cứ một mực không nhận nó là con đẻ là sao. Nó giống cái tông nhà nó thế kia, đôi mắt này, cái miệng này. Chỉ có thể là chú ấy muốn gây sự với thím mà thôi.

Bố tôi thở dài nói: chú ấy ngày xưa thế nào, ngày nay thế. Cái nết đánh chết không chừa!

Bố tôi đã gọi chú Lâm lên nhà. Bố tôi sau khi rít một điếu thuốc lào, phả khói um lên trần nhà, nhìn chú Lâm bằng đôi mắt như muốn soi rọi vào bên trong đứa em trai để tìm hiểu nó đang suy nghĩ gì, như thế nào, có vẻ không bằng long nói: Thím Linh bế cháu lên đây. Thím khóc, nói là chú không nhận đứa bé. Tôi không hiểu chú nghĩ gì, như thế nào? Làm bố mà không nhận ra được con mình thì lạ?

Chú Lâm nói: đó là việc của em. Anh can dự vào làm gì! Thằng Tiến không phải là con em! Bác không ở trong nội tình sao mà biết được.

Bố tôi: Nó trông giống chú đến mức ấy. Ai thoạt nhìn cũng thốt lên, đúng là con bố Lâm.

Chú Lâm nhìn bố tôi, khuôn mặt chú lạnh tanh, chẳng biểu cảm gì như  thường ngày vẫn thế. Chú Lâm nói: Ai cũng bảo thế. Họ không biết, trẻ lớn lên sẽ khác. Giờ cái gì cũng thấy giống, đôi khi trực giác đánh lừa con người!

Bố tôi: Tôi không hiểu chú nghĩ gì nữa. Chú ngày xưa thế nào, nay thế. Con người chú chẳng thay đổi tí nào. Năm nay hơn bốn mươi rồi mà vẫn nhông nhông như đứa trẻ con. Không làm gì, không suy nghĩ đắn đo điều gì. Ai sống, ai chết mặc! Chú sống chỉ nhằm thỏa mãn cho ham muốn rong chơi, cờ bạc của bản thân. Không ai có thể can ngăn, giáo hóa được chú.

Chú Lâm: Bác đừng động chạm đến em! Em làm gì, có như thế nào cũng không phiền đến bác. Việc nhà em, bác đừng can dự. Bác đừng nghĩ, đón em về đây là bác có cái quyền mạt sát, dạy dỗ em! Bác dạy bác trước đi!

Bố tôi bực tức, nổi xung lên, nhưng kịp thời kiềm chế gằn giọng nói: Nhưng ông là em tôi! Thiên hạ thì tôi mặc kệ, nhưng ông là em tôi! Ông sống như thế không những làm khổ bản thân, làm khổ vợ con, làm khổ cả người thân. Người ta không nói ông mà nói tới tôi!

Chuyện giữa chừng, chú Lâm bỏ ra về. Bố tôi lắc đầu nói với mẹ tôi, khuôn mặt đầy vẻ thất vọng và giận dữ: Cái thằng ngoài bốn chục tuổi đầu mà vẫn bông lông, sống chẳng biết quan tâm tới ai. Lạ thật. Có nói thì nó lảng.

Bây giờ về chú Lâm:

Chú Lâm ngày xưa vốn ngỗ nghịch. Tôi nghe bố kể lại. Từ bé chú đã tỏ ra ham chơi, không chịu học, không chịu làm bất cứ việc gì. Ông nội tôi có lần nói: Thằng Lâm nhỡ có chuyện gì tau còn bốn thằng con trai. Năm mười ba tuổi, chú Lâm bỏ nhà đi. Ông nội tôi tìm chú ở khắp nơi, lên Hà Nội, xuống Nam Định, ra Hải Phòng hỏi han họ hàng, người quen nhưng chú vẫn bặt vô âm tín. Ông bà nội tôi rất buồn. Ông nội nói: lúc bực lên nói với nó như vậy thôi. Cha mẹ nào chẳng thương con. Giọt máu của mình, nó chính là một phần cơ thể của mình. Nó đau thì mình cũng đau. Người ta nói, cá chuối đắm đuối vì con là vì thế. Nay nghĩ lại thấy thương nó! Ông bà nội buồn bã cơm không buồn ăn, nước không buồn uống nhiều ngày. Bà nội ngồi thừ cả ngày luôn ngóng ra cổng, mỗi bữa cơm đều nhắc đến chú, mỗi lần như thế lại dàn dụa nước mắt.  Ông nội cũng thế, thường hay ngồi trên chiếc chiếu trải ngoài hiên, cứ sau mỗi mồi thuốc lào lại ngóng ra cổng..khuôn mặt ông bất thần trở lên buồn bã. Ông đi vào trong nhà, nằm dài trên giường, cất tiếng thở dài thật não nề. Đượm ngóng tin con mãi không có tin tức gì. Cả nhà trong cơn sốc nặng nề. Tôi được biết, trước khi lâm chung, ông, rồi bà nội tôi dặn bố tôi: Các con phải tìm cho được Lâm về. Bố tin là Lâm còn sống, nó đang ở đâu đó.

Cho mãi tới hơn hai chục năm sau, tình cờ bố tôi được biết chú Lâm còn sống, đang ở thành phố  Vèm. Mẹ tôi giục bố tôi đi tìm chú về. Đó cũng là di nguyện của ông bà. Chú Lẫm, chú Hằng hay tin cũng về bàn chuyện vào Vèm đón chú Lâm về quê.

Về quê được vài tháng, chú Lâm lấy vợ. Vợ đầu của chú tên Bốn, đã có một đời chồng, nhưng chưa có con. Thím Bốn có căn nhà nhỏ ria mặt đường thôn. Căn nhà chỉ hơn 50 chục mét vuông, vách trát, lợp ngói. Phía bên trái là cái bếp chỉ độ bảy tám mét vuông, đủ để bắc cái kiềng, cái chạn, chừa một khoảng nhỏ ngồi đun nấu. Thím Bốn ở với chú Lâm được vài năm. Thím mất vì căn bệnh hiểm nghèo. Vài năm ăn ở với chú Lâm, chịu khó, chịu khổ, làm lụng quần quật, chiều chú Lâm hết mực, thím vẫn không có được may mắn, hạnh phúc mang thai, rồi sinh nở, dù đã đi nhiều nơi bốc thuốc, hễ nghe nói ở đâu có thầy thuốc giỏi là thím khăn gói quả mướp, có bao nhiêu tiền dốc hết để thuốc men cho thím và cho chú. Vì chuyện này thím Bốn buồn lắm. Mỗi khi nhìn thấy ai đó bế đứa trẻ trên tay là thím ào tới, đòi bế, đôi mắt thím sáng rực khát vọng. Thím Bốn nói;  con trai cũng được, gái cũng được. Tôi chỉ cần có đứa con đã mãn nguyện lắm rồi. Nhưng ông trời nhất quyết không  làm hài lòng thím. Thím ra đi, khi niềm ước ao có một đứa con vẫn xé đến cháy lòng.

Thật ra chú Lâm tôi cho đến lúc tạm biệt cõi trần từng ở với nhiều người đàn bà. Người đàn bà thứ hai ăn ở với chú tôi tên Hường dáng người cao gầy, thô như con cá rô đực, giọng nói chát chúa đanh như giọng đồng thau. Thím Hường ăn ở với chú tôi hơn chục năm chẳng có mụn con nào. Đích thân thím vào xã trong mai mối tìm vợ cho chú Lâm nói là để sinh con đẻ cái. Đàn bà không có con thật như cây cau điếc. Các cụ ví thế, nó khô khẳn và vô vị.

Tôi biết chú tôi lấy thím Linh có cưới, có treo hẳn hỏi, có đăng ký hôn nhân đàng hoàng. Đám cưới cũng nhỏ nhẹ thôi, nhưng các bà cô, bác, các dì, cả mấy anh em trai chú Lâm từ Hà Nội về dự. Đám cưới tổ chức vào dịp tháng 3, lúc ấy mưa dầm đã ngớt, bầu trời âm u xám xịt nay trở nên quang đãng,  chỉ vài ngày nữa là đến thanh minh…chỉ đôi tút thuốc, buồng cau và vài mâm cơm nhưng cả họ đều mừng cho chú. Cả họ, rồi hơn chục dân làng theo con đường này, đi bộ trên con đường đất chưa kịp se xuyên qua những cánh đồng vào xã trong đón dâu.

Khi thím Linh về làm dâu họ Đinh, Thím Hường lập tức rời bỏ chú Lâm về quê. Tôi không hiểu thím Hường suy nghĩ gì. Có thể đã chán cái cảnh gà mái không con, chán cảnh là vợ mà như con hầu người ở, hoặc cũng có thể đó là hành vi cao thượng, tạo thuận lợi cho chú Lâm tôi yên ấm, hạnh phúc với duyên mới.

.Được gần năm, thím Linh sinh hạ thằng Tiến. Hạnh phúc tưởng như viên mãn với thím. Đối  với người phụ nữ, lấy chồng, lãi là lãi ở đứa con. Cho dù chồng phụ bạc đến đâu nhưng cứ có đứa con, nhất là con trai coi như ăn chắc. Đàn ông có thể bồ bịch nhưng ít khi bỏ vợ, bỏ con, nhất là khi vợ đã có con trai, nối dõi tông đường- Thím Linh nghĩ thế. Tuy nhiên mọi thứ không như thím nghĩ. Chú Lâm say mê với chiếu bạc, khi tổ tôm, khi xóc đĩa, khi chơi tá lả. Chú ngồi từ sang tới trưa, về ăn cơm, chiều lại tiếp tục ngồi tá lả, thậm chí cả tối tới đêm khuya mới về. Thực ra chú  đánh cò con thôi, nhưng dù là cò con khi thua có ngày cũng tới hàng triệu. Sau những lần ngồi chiếu bạc, chú Lâm khi về nhà mồm thở ra sặc mùi  rượu. Thim Linh sợ mùi hôi hám của cơ     thể người lâu không tắm rửa, sợ mùi rượu, mùi thuốc lá nồng nặc nhưng vẫn nén để chồng thỏa mãn. Nhưng sự việc không chỉ đến có thế. Chú Lâm không nhận thằng Tiến là con trai. Chú nói với thím Linh: Tiến không phải là con trai tôi. Cô đã có thai trước khi về với tôi.

Những lúc như thế, thím Linh bật khóc nói: Tiến là con trai anh đó. Là đàn ông anh hiểu rõ chuyện này chứ. Tiến chính là giọt máu của anh. Em đã mang thai con sau khi về đây làm vợ anh.

Chú Lâm: Không! Không! Cô đã dối  tôi. Nó đâu phải con trai tôi!

Thím Linh: Anh nhìn con mà xem, nó giống anh ở khuôn mặt, đôi mắt, đôi môi. Người ta nói con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.  Anh phải tin em chứ!

Thím Linh thuyết phục thế nào, chú Lâm cũng không nghe. Chú Lâm không đánh thím Linh, nhưng ngoài những lúc thỏa mãn dục tính,  cư xử với thím rất lạnh lẽo. Chú chẳng hề làm đồng ruộng, không buôn bán, việc nhà không..tóm lại sáng đi chơi tá lả, trưa về ăn cơm, đôi khi không, chiều cũng chơi tá lả hoặc xóc đĩa. Không nhiều tiền thì đánh cò con, hoặc chầu rìa. Chú thường xuyên lặn tiền của thím Linh.

Mẹ tôi rất thương thím Linh. Hai chị em dâu thường hay tâm sự với nhau. Cứ nhìn thấy thím Linh là mẹ tôi lại mủi lòng, đồng cảm với thím. Mẹ tôi luôn an ủi thím: Chú ấy bây giờ như thế, nhưng rồi sẽ thay đổi. Thằng Tiến lớn lên, đi học…nhìn thấy Tiến là chú ấy thay đổi. Thím cứ kiên nhẫn. Ông trời lúc có mưa, lúc có nắng. Chẳng nhẽ ông trời cứ đày ải thím mãi. Đời người cũng thế. Vả lại thím đã có thằng Tiến. Nghĩ đi nghĩ lại. Thôi thây kệ bố nó! Có một đứa con trai thế là yên tâm.

Thím Linh: Chị nói thế là em cũng biết vậy. Đôi khi em cũng dằn lòng như thế. Nhưng mà nó tủi lắm chị ạ. Mang tiếng  với đời. Về nhà thì bố mẹ chửi mắng, thiên hạ chê cười.

Mẹ tôi: Thím có trai trên, gái dưới đâu mà lo. Thiên hạ cười, dè bỉu cũng mặc kệ. Rồi người ta sẽ hiểu.

Thím Linh cam phận ở với chú tôi đến lúc thằng Tiến được gần hai năm tuổi mới dứt tình trở về nhà mẹ đẻ, như phần đầu câu chuyện tôi đã đề cập. Sau này tôi mới được biết, thím đã nhiều lần nói với mẹ tôi. Chị ơi em đã cố gắng chịu đựng. Cho dù là ghẻ lạnh, cho dù là chẳng còn tình cảm gì. Nhưng chị biết không, nhà em có người đàn bà khác rồi, ở ngoài bối ấy. Em có nhẫn lại chịu đựng nhưng cũng chẳng có tương lai gì. Em nghĩ mãi rồi, quả quyết rồi. Em cùng thằng Tiến về nhà mẹ đẻ. Thôi thì một mình nuôi con cũng được. Nó ngoan ngoãn là em thấy hạnh phúc.

Mẹ tôi thất thần nói: Thím định bỏ về nhà mẹ đẻ thật ư..? Thật khổ cho thím! Mẹ tôi nói rồi thở dài sườn sượt, khuôn mặt đượm buồn, đăm chiêu…

Được biết thím Linh cùng với thằng Tiến về nhà mẹ đẻ, đến hàng tháng cũng không ló mặt ra ngoài đường, bởi sợ hãi sự đàm tiếu, lúc nào trong lòng cũng vận vào mình ý nghĩ bị ghẻ lạnh, bị chê cười, bị phụ bạc. Hơn tháng sau mới thấy thím Linh ra ngoài đường, đi chợ làng với cái nón kéo sùm sụp trước mặt, bước đi như trốn chạy. Không lâu sau thím bị tâm thần, thường đi dọc làng, làng này qua làng khác, tóc rối bù, xõa xuống mặt, quần áo nhàu nát bẩn bụi. Thím cứ đi như thế, lúc mỉm cười, lúc mếu máo, giữa trời trưa nắng, giữa những cơn mưa mùa đông, như xối, gió lạnh thấu xương..Bố mẹ thím đưa thím đi chữa bệnh tới hơn hai năm ở bệnh viện tâm thần. Khi khỏi bệnh, về nhà, thím để thằng Tiến cho ông bà ngoại nuôi, vào miền trung đi thu mua đồ đồng nát, thi thoảng mới về quê. Thím học được nghề làm hàng mã, hình nhân để thờ cúng, về nhà tiếp tục công việc đó. Thím dành dụm mở cửa hàng, mở xưởng, công việc làm ăn rất phát đạt. Thím ở vậy nuôi thằng Tiến, bao nhiêu tình thương yêu dành cả cho con. Hết cấp ba, Tiến vào học cao đẳng, không đi theo con đường công viên chức mà chọn ở lại nhà tiếp tục nghề của mẹ. Giờ có cả nhà xưởng lớn, có đối tác làm ăn ở khắp trong nước, với cả nước ngoài. Tiến sắm ô tô tải khi tự mình đi giao hàng,  khi thuê lái, trở thành người kinh doanh giỏi nổi tiếng trong lĩnh vực này.

Thím Linh dặn mọi người giấu Tiến không cho nó biết gốc gác ở đâu, ai là bố nó. Nhưng khi lớn lên Tiến tự tìm gốc gác của mình. Tiến không cho mẹ biết, thoảng hoặc mỗi khi năm hết, tết đến lại về thăm họ hàng, thăm bố, mỗi lần dúi cho chú tôi vài triệu. Nếu không có sự trợ giúp của Tiến, không hiểu chú tôi sẽ sống như như thế nào. Mỗi lần Tiến đến nhà chơi, nhìn cậu em họ tôi không thôi cảm xúc cảm phục. Khuôn mặt Tiến vuông vắn, lông mày rậm, vầng trán và quai hàm rộng, nụ cười có núm đồng tiền sâu hai bên má. Khuôn mặt mang tính cách mạnh mẽ khoáng đạt cương nghị của đàn ông. Điều này khác với vẻ mặt lạnh lùng, bất cần của chú Lâm.

Tiến không hận bố, bỏ qua cho bố, biết tìm về nguồn cội, biết chăm lo cho bố thì đó quả là có một tấm lòng nhân hậu.

Vợ Tiến là giáo viên của một trường Trung học phổ thông, tên là Hoa. Chúng cùng học với nhau, yêu nhau từ năm cấp III. Gần hai năm sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Hoa về huyện công tác, chúng mới báo cáo gia đình làm lễ cưới.

Bây giờ quay về chuyện của chú tôi với người đàn bà tên Liễu vốn quê ở ngoài bối. Dân gian xưa có có câu: dân ngoài bối đãi gạo bằng rổ. Ý muốn nói, làng ngoài bối chủ yếu trồng ngô, ăn ngô hầm. Cũng có tiếng đồn thổi, con gái ngoại bối máu mê, dễ dãi. Đấy là chuyện của ngày xưa, còn nay có thể mọi chuyện đã đổi khác.

Thím Linh đưa con về nhà mẹ đẻ được ít lâu thì chú tôi đón thím Liễu về ở cùng. Thím Liễu đã có một đứa con gái, năm ấy đã lên chin, mười tuổi tôi không nhớ rõ. Cho dù lần này chú tôi lại đi bước nữa, không đăng ký hôn nhân, không cơi trầu dạm hỏi, nhưng tất nhiên tôi vẫn phải gọi bằng thím khi Liễu theo về ở với chú tôi như vợ chồng. Ôi dào, nề hà gì. Đăng ký cũng chỉ là hình thức, cái chính là ăn ở với nhau được hạnh phúc. Ối người thời buổi này về ở với nhau đâu có cưới xin- tôi tự nhủ thế.

Thím liễu có khuôn mặt bầu bầu, lúc nào cũng hây hây đỏ, dáng người đậm một chút, ở tuổi thím dáng người như thế khỏe và sung mãn, đôi mắt thím long lanh như có ngấn nước và cặp môi son. Gái một con, trông thím còn khá màu mỡ.

Vài tháng sau đã thấy cái bụng của thím thây lẩy. Thím đẻ cho chú tôi một đứa con trai đặt tên nó là Hoàng.

Được cái từ khi về ở với chú tôi, thím Liễu chịu khó việc đồng áng và có vẻ an phận để nuôi hai con. Thím không hề chê trách, hoặc tỏ ra bực tức khi chú tôi vẫn ngày ngày lang thang trên các chiếu tá lả và tổ tôm. Dường như việc có người đàn ông trong nhà đối với thím Liễu là quá đủ, cho dù người đó có thế nào chăng nữa, tàn nhẫn hay vũ phu, thím vẫn có được cái cảm giác của một gia đình. Sáng dạy lo cho hai đứa con ăn, cho chúng đi học, đi làm đồng.. tối như con chim có cái tổ để về, nhà có tiếng con trẻ, có tiếng đàn ông. Đêm đêm vẫn có mùi mồ hôi đàn ông nồng nồng, hơi thở phì phò phả ra mùi rượu, mùi chua chua của thức ăn và được thỏa mãn cơn thèm khát điên khùng của xác thịt.

Bố tôi có lần nói chuyện với chú Lâm. Tôi thấy thằng Hoàng chẳng giống chú tẹo nào. Mắt nó trắng dã, nhìn đã thấy gian, da nó đen  đúa.

Chú Lâm: Bác cứ nói thế. Em biết em quan hệ với cô ấy từ lâu, khi mà Linh chưa bỏ về nhà mẹ đẻ cơ. Cô ấy nói: từ hồi biết em, ngoài em ra chưa từng quan hệ với một ai.

Bố tôi suýt nữa thì sặc cười, lắc đầu nói: Không hiểu Liễu  cho chú ăn gì, chuốc bùa mê, bả cái gì, mà chú nằng nặc bênh nó. Chú không nghe nhân gian đàm tiếu. Con đẻ không thương, thương con cành cạch. Tôi chịu ông đấy. Bố tôi chợt gọi chú Lâm bằng ông.

Chú Lâm: Hiên hạ cười hở mười cái răng. Đ.M thiên hạ. Em không sống vì thiên hạ. Mặc con mẹ thiên hạ. Nói xong chú vùng vằng ra về.

Do nợ nần vì tá lả, cờ bạc, căn nhà ven đường thôn của thím Bốn ngày trước, nay chú thím Lâm Liễu bán đi để trang trải, hơn năm sau lại thấy chú thím bán ruộng 03. Thím Liễu dù chăm chỉ đi làm thuê, làm mướn tối ngày nhưng không đủ trang trải, cấp đỡ cho chú Lâm chơi tá lả, nên ruộng cứ bán dần đến hết. Chú Lâm và Thím Liễu thành ra không có nhà, không có ruộng. Chú Lâm đánh liều, dùng tiền mới bán nửa sào ruộng ở khu cánh vườn, nhảy dù dựng một căn nhà nhỏ sau miếu thổ thần đằng sau cây đa cổ.

Bố tôi can ngăn không được đành thở dài, buồn bã. Rốt cục anh em kiến giả nhất phận. Giúp đỡ tí chút thì được, cho lời khuyên thì được, chứ mỗi người cũng còn gia đình mình, con cái, còn bao gánh nợ trần phải trả, sao có thể sẻ nhà cho chú thím.

Ông Tín nói với chú Lâm: Vợ chồng ông ở đấy không sợ ư? Thần cây đa, ma cây đề. Ông không sợ thần linh ư?

Chú Lâm hề hề cười. Tao đâu có biết sợ ai? Làm gì có thần nào. Láo toét hết!

Ông Tín: Ở đấy không khá được đâu!

Chú Lâm: Nhà ông mê tín bỏ mẹ! Đúng là ngu tín. Thôi, ông đừng nói giọng ấy với tôi! Hay là ông muốn chỗ đất ấy?

Ông Tín: Chính quyền người ta không nói gì ư? Đất là đất của nhà nước. Người ta dỡ nhà ông đi đấy.

Chú Lâm: Cái nhà ông này đểu thật. Hay là ông đã có ý kiến với xã rồi?  Đúng là châm bị thóc, chọc bị gậy. Có giỏi cứ ra đây mà dỡ. Mà từ hồi tôi ở đó đến nay, có ai nói gì đâu. Chỉ có ông!

Thằng Hoàng càng lớn càng đen đúa, mắt nó càng trắng. Học không được, hết lớp 4 mà tính cộng dưới một trăm không biết làm, viết một câu cũng sai chính tả. Nó bỏ học lêu lổng. Năm 16 tuổi nó đã cùng lũ bạn xâm hại tình dục một phụ nữ ở khu ghềnh, thế là vào trại. Vài năm sau khi trở về tính tình càng trở nên lầm lì, gian dối. Bạn mới của nó toàn kẻ bất hảo, có đứa dùng cỏ Mĩ hút, hít. Hoàng chẳng biết sợ ai, nể ai, ngay cả mẹ nó cũng đe dọa nói chi đến chú Lâm.

Thím Liễu rất thất vọng, buồn bã, mắc bệnh hiểm nghèo không qua khỏi, năm ấy thím mới ngoài 60 mươi tuổi. Không ai nghĩ thím Liễu ra đi trước chú Lâm, bởi thím khỏe mạnh, lúc nào cũng phây phây, má hồng hồng như gái dậy thì như thế. Mới biết kiếp phận con người không biết thế nào.

Không lâu sau đó, Hoàng lấy vợ. Được vài năm vợ Hoàng bỗng ôm con bỏ nhà vào mãi tận miền trong không để lại dấu tích.

Chú Lâm già yếu sống một mình ở căn nhà nhỏ sau gốc cây đa, sau miếu thổ thần. Các cháu từ mọi nơi, khi về quê đến thăm chú, thương chú bàn nhau mỗi đứa phận Đinh gửi tiền chu cấp cho chú hàng tháng. Tiến thi thoảng cũng đưa tiền cho tôi, nhờ tôi giữ, mỗi tháng mua cho chú chục ký gạo, mua đậu, thịt cho chú.

Chú Lâm đi ra đường phải cầm gậy chống, hai chân chú run run, hai tay run run vịn vào cái gậy lần từng bước trên đường làng. Chả còn hơi sức đâu mà nghĩ đến chuyện chơi tá lả, tổ tôm, chú ngồi ở cái hiên hẹp, ngó ra ngoài đường. Cây đa dịp này buông lá, lá đa rụng, khô quăn, khô queo, gió thổi bay xào xạc ngoài sân. Miếu thổ thần thi thoảng có người đến cúng lễ, hành lễ xong, thu dọn đồ lễ mang theo.

Một hôm  thằng Hoàng về, nó trợn trạo, nháo nhác nói: Bố đi vay tiền cho con!

Chú Lâm nhìn Hoàng chột dạ, nói: Bố biết vay ai bây giờ? Ai người ta cho bố vay? Chú rút trong túi được hơn triệu, tiền Tiến gửi cho, nói: Bố còn một triệu đây, cầm lấy.

Được vài ngày sau, Hoàng lại bắt chú đi vay tiền… Lần này chú không chịu nổi cú sốc nữa. Chú nằm liệt giường. Chú Lâm nói với Hoàng: Cho bố được nhìn các cháu. Nói rồi bất động, hơi thở mỗi lúc một yếu dần.

Gió cuốn ào ạt. Những cành đa cổ thụ vươn dài sum xuê vặn mình trước từng cơn gió, cành kêu lắc rắc tưởng gãy. Nhìn chú bất động trên giường tôi không thể cầm nước mắt. Anh em chú, khổ sở nhưng biết sống vì gia đình, dạy dỗ con cái, giờ đứa nào học hành, kinh doanh trở lên khá giả. Nhiều đứa là chủ của công ty. Thế mới biết ĐƯỜNG TRẦN gian đầy khổ ải. Nếu biết tu tỉnh trồng cây, chăm cây rồi ngắm quả vào mùa bội thu, an nhiên và hạnh phúc ỏ đấy chứ đâu.

(Hưng Yên tháng 9 năm 2024.)