Giữa vòng đời hối hả, tôi thường có thói quen rong ruổi nơi miền sơn cước, núi đồi. Ở Huế, có những trạm dừng chân, thong dong tâm hồn ngay trong lòng thành phố. Nơi đây trở thành chốn đi về cho những ai thích nghe lòng bình yên và cảm nhận điệu bolero của vùng đất xứ Mệ.
Huế nổi tiếng với đền đài lăng tẩm, hoàng cung cổ kính; Huế có núi Ngự Bình trước tròn sau méo, và Huế có những đồi thông bình yên, xanh mát. Có những ngày lòng thấy chênh chao, tôi lại tìm về hướng Tây Nam thành phố, một nơi được ví như “đôi mắt thần của Cố Đô” để tìm cảm giác an yên; để thả từng giọt muộn phiền vào khoảng không lặng lẽ. Tôi có cảm giác những ngọn đồi này mang dáng dấp của xứ sở cổ tích huyền thoại. Đồi Vọng Cảnh, đồi Thiên An đẹp như tranh vẽ nghiêng mình đón gió mát rượi từ thượng nguồn sông Hương, để cứ thế, nhẩn nha kể cho ta nghe giai điệu thời gian của bốn mùa.
Có những nơi, dù bước chân đã quen lối, lòng vẫn không khỏi xao xuyến mỗi lần quay lại. Đồi Vọng Cảnh và Thiên An trong tôi là như thế – hai góc lặng lẽ của Huế, nơi bao lần tôi tìm đến để phiêu linh trong cõi bình yên nhân thế, để hong khô những ướt át trong tâm hồn, vo tròn dòng tâm tư, để được lặng nghe nhịp thở rất khẽ của quê hương mình.
Vọng Cảnh, cái tên đã gợi lên một nét đẹp trầm tư. Lên đồi cao, nơi vi vu muôn ngàn cây lá, nơi có những vạt nắng thanh tân chưa kịp gọi tên nỗi ưu tư. Dừng chân dưới gốc cây già, nhìn lên bầu trời xanh, tựa thấy lòng mình thênh thang, mà muốn vươn rộng đôi tay bé nhỏ của mình để ôm lấy tựa hồ chốn thung thăng. Từ trên đồi nhìn xuống, dòng Hương như dải lụa xanh uốn quanh chân núi, trôi mãi, trôi mãi như chưa từng biết mỏi. Xa xa, miệt vườn cây trái Kim Long, Nguyệt Biều hiện ra xanh màu ước vọng. Bất chợt, từ nơi này, tôi lại nghe nhịp sống chậm trôi. Ngọn gió mát lành thổi từ thượng nguồn sông Hương chưa đủ để tiếng thông âm vang thành tiếng. Chiều nhẹ trôi, Huế như một bản nhạc không lời. Giữa chốn bình yên hoa lá, nhìn về xa xa, Huế xinh xắn, dịu dàng giữa vườn cây trái. Người Huế không vội vã, nghĩ nhiều hơn nói; nói với nhau đủ nghe, những thanh âm trầm răng, tê, mô rứa níu giữ những bước chân xa quê muốn trở về.
Từ Vọng Cảnh, tôi nhận ra non nước mình quá đỗi hữu tình. Những mái nhà rêu phong ẩn hiện trong tán cây, những vườn trái ngọt lành, tất cả tạo nên một khung cảnh yên bình như tranh thủy mặc. Trên đồi lộng gió, giữa núi đồi bình yên như một Đà Lạt thu nhỏ mơ màng, ít nhiều lòng người dịu lại, lãng đãng phiêu du. Dường như, cây cỏ và con người cũng có mối tương giao nào đó. Vũ trụ là căn nhà lớn mà con người là kẻ cư ngụ. Triết lý sống phương Đông hiện sinh ngay trên đất Huế để định hình nên phong cách sống vừa an yên, nhẹ nhàng, vừa thâm trầm, kín đáo…
Tôi thường lên đây vào những chiều cuối tuần, có khi độc bộ, có khi rủ rê cả một đám bạn. Dù đi một mình hay với ai, tôi có thói quen mang theo một quyển sách mỏng, một tâm trạng nhẹ tênh – hoặc nặng trĩu. Ngồi dưới bóng thông, gió đưa hương trà, lòng mình cũng được gột rửa, thanh thản như chưa từng vướng bụi trần. Gấp trang sách mỏng, tôi lại thả hồn mình trong giai điệu da diết Chiều trên đồi thông của Châu Kỳ: Chiều xưa trên đồi thông/ ta đi dưới mây hồng/ Anh yêu làn hương tóc/ em còn nhớ hay không?/ Chiều xưa trên đồi thông/ tóc em xỏa buông dòng/ Ðê mê tình một cõi/ Chan hòa niềm ước mong… Tôi chỉnh volume chiếc điện thoại vừa đủ mình nghe, dìu dặt, mơ màng, thả hồn mình theo lời ca. Nghe bản tình ca giữa chốn khởi nguyên này, âm nhạc mang đến cho tôi cả khoảng lặng, khơi gợi, đánh thức để tôi lại càng da diết nhớ, yêu thương một bóng hình xưa cũ.
Rời Vọng Cảnh, tôi lại thả mình theo con đường quanh co dẫn vào rừng thông Thiên An. Ở đó, từng tia nắng rơi lặng lẽ qua tán lá, chiếu xuống con đường rải đầy thông khô, vang tiếng bước chân khẽ khàng như lời thì thầm của thời gian. Thiên An không nói gì nhiều, nhưng lại lắng nghe được rất nhiều. Cách phố thị chẳng bao dặm, Thiên An vẫn cứ như một chốn thiền, để du khách cứ lặng thầm trong những bước chân mà ngâm nga giữa bầu không khí trong trẻo dài lâu. Nơi này, có khi tôi lại nghe được tiếng chuông chùa vọng lại. Những buổi chiều lặng gió, ngồi bên hồ nước nhỏ giữa rừng, tôi thấy lòng mình như chạm được vào một Huế khác – sâu hơn, xanh hơn và cũng tĩnh hơn trong từng hơi thở.
Còn nhớ, thi sĩ Thu Bồn cảm Huế trong cái nhìn da diết khi ngắm nhìn nàng Hương trôi: Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Là người con xứ Huế, nhiều lúc tôi vẫn tự hỏi mình: Lẽ nào sông Hương một đời không tới biển? Sông thơm uốn lượn làm duyên dưới chân núi; núi trầm tư kiêu hãnh để dòng nước lững lờ nửa như muốn trôi xa về thành phố, nửa như dùng dằng ở lại cùng rừng thông. Huế đẹp theo cách riêng, không ồn ào, không vội vã, mà lặng thầm đi vào lòng người qua những chiều như thế.
Vọng Cảnh và Thiên An như hai câu thơ cổ cất giấu trong trí nhớ tôi – mỗi lần nhớ lại là một lần lòng dịu xuống. Là người ở Huế, tôi không chỉ yêu Huế qua những di tích rêu phong, mà còn yêu cái cách Huế vỗ về tâm hồn bằng sự bình yên vô hình nhưng rõ rệt. Huế nâng niu con người từng bước đi rất nhẹ, rất khoan thai như cái cách ta đi giữa rừng thông, không vội vàng, mà cứ thong dong, từ tốn gom vệt nắng qua chiều.
Huế trong tôi là những chiều đứng giữa rừng thông, thấy gió đung đưa ngọn cỏ, nghe lòng mình lặng lẽ như mây. Là những buổi sớm mù sương trên đồi cao, thấy cả thành phố ngủ ngoan dưới chân, thấy mình nhỏ bé nhưng đủ đầy.
Và tôi biết, dù đi đâu, lòng tôi vẫn neo lại nơi đây – giữa một Huế lặng thầm, dịu dàng như một bản nhạc không lời mãi ngân trong ký ức. Tôi còn nhớ, giữa thập niên 90, khi vừa rời mái trường đại học, thành phố núi Buôn Mê Thuột có ý chào đón mình vào đây với công việc khá hấp dẫn. Có lẽ vì vẫn chưa đủ can đảm để xa Huế, và có lẽ cũng quá yêu Huế nên không muốn rời đi. Tôi quyết định ở lại đất mẹ, với núi Ngự, sông Hương, với Thiên An, Vọng Cảnh thông reo…
Có những buổi chiều, tôi cứ thế mà đi – không định hướng, không mục đích – chỉ biết là phải về với rừng, về với đồi, về với một phần rất thật của Huế mà lòng mình vẫn luôn cất giữ. Vọng Cảnh, Thiên An – hai cái tên ấy không chỉ là địa danh, mà là những miền ký ức tôi vẫn thường quay về, như một cách tự nhắc mình rằng Huế vẫn còn đó – nguyên vẹn, dịu dàng, dù cuộc sống có trôi đi đến đâu.
Lang thang trên đồi cao, tôi vẫn thường bắt gặp bóng hình người họa sỹ. Lãng du theo gió, theo mây, kẻ si tình nghe phấn thông rơi, thả trôi cái nhìn đắm say vào trời đất, để rồi bất chợt anh lại chăm chút, hút mình vào trong giá vẽ. Huế, một bài thơ tuyệt tác dần dần được phác thảo trong tranh của nhà hội họa, sống động, sắc nét mà thật chân tình.
Từ trên đồi Vọng Cảnh, thành phố Huế hiện ra như một tứ thơ lặng lẽ, trôi theo nhịp Hương Giang. Những mái nhà, những rặng cây, những vườn thanh trà như ngủ yên dưới nắng vàng nhạt. Tôi đã từng đứng ở đó, nhiều lần, vào những ngày lòng chông chênh nhất. Thả hồn mình theo tiếng lá reo, không ai nói gì với ai, chỉ có gió và thông thì thầm – nhưng đủ để tôi lắng lại, nghe tiếng mình thở chậm hơn, nghe những suy nghĩ rối ren dần gỡ ra từng nút nhỏ.
Có lẽ, ở chốn Hoàng cung, vùng đất từng có đoàn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ – tiến quân ra Bắc soi bóng xuống cầu Phú Xuân này người ta sống với nhau thiệt nặng tình nặng nghĩa. Họ sống với những khoảng trống nhiều hơn là sự đủ đầy. Không phải vì thiếu thốn, mà vì Huế dạy người ta quen với sự chậm rãi, với những khoảng lặng dài đủ để soi vào bên trong mình. Giống như cách tôi lặng lẽ bước trên con đường rừng Thiên An – nơi mặt trời rơi qua từng kẽ lá, lòng người cũng rơi lại những niềm riêng chẳng dễ gọi tên.
Rừng thông Thiên An không cố làm đẹp lòng ai, chỉ đứng đó, xanh, thâm trầm, như một người bạn tri kỷ. Có lần, tôi ngồi thật lâu bên hồ, nghe tiếng gió thở qua rừng, nghe tim mình dội lại tiếng gì đó rất khẽ – có thể là nỗi buồn, cũng có thể là niềm thương – mà mãi không gọi thành tên. Ở Huế, người ta không vội gọi tên cảm xúc, chỉ sống cùng nó, chậm rãi, để lòng không hoang hoải giữa những chuyển mùa, giữa bao bộn bề dâu bể.
Tôi không biết mình đã yêu và mến Huế từ bao giờ, chỉ biết mỗi lần đứng giữa rừng thông, nhìn ánh chiều tắt dần sau đồi, hoàng hôn qua kẽ lá, tim mình lại thắt lại một nhịp. Có thể vì Huế đẹp, rất riêng – nhưng cũng có thể vì Huế lặng quá, mà khiến người ta thấy mình nhỏ nhoi, thấy lòng mình cần một chốn để tựa vào, để hiểu rằng có những yêu thương không cần nói thành lời, chỉ cần lặng yên mà ở lại – như Huế, như Vọng Cảnh, như Thiên An – như một giấc mơ không bao giờ tỉnh hẳn…
Ngày mai, thông vẫn ung dung đón ánh bình minh; hoàng hôn vẫn dịu dàng buông theo nỗi nhớ. Và ngày kia, hay bao ngày tới, tôi vẫn lên nơi này để nghe núi đồi kể chuyện…
Trần Văn Toản
Đánh giá bài viết
Bài viết liên quan: