Trong cuốn sách “Rừng, Đàn bà, Điên loạn”, tác giả Jacques Dournes mô tả: “Rừng, phủ kín phần lớn khu vực sinh sống của cư dân bản địa, chiếm vị trí trung tâm của miền đất này […]. Rừng có mặt ở khắp nơi, trong làng, ngoài rẫy. Rừng thưa, nơi thống trị của các loài cây họ dầu, cây cho gỗ xây dựng, cùng các loại bộ đậu, vài cây sồi nhỏ và tre dùng làm rui mè. Rừng rậm rất đa dạng về loài cây, từ những cây Bombax và Lagerstroemia, Artocarpus và Mangifera, nơi treo lủng lẳng những chùm phong lan thơm đến mê hồn, đến những bụi rậm rối bù các loại dây leo, trong đó có loài mây hết sức hữu ích, và những cây tre lớn có thể dùng cho mọi việc. Hệ thực vật mọc hoang trên những vùng đất bỏ không và ở các rìa làng, nơi những cây vông nem nở đỏ rực và các loại cây họ trôm bốc mùi. Và ở khắp nơi, ngay cả những chỗ bị rợp, một thảm cây họ cỏ rải rác vô số các loài nấm trên nền đất chua. Mùa mưa thì dậy mùi đất bùn, mùa khô thì nồng khét. Ngổn ngang cành khô và lá rụng. Thằn lằn và kỳ đà. Những con nhện giăng tơ có thể bắt được cả chim. Các loài vật họ thỏ và họ hươu gặm cỏ trong rừng thưa, các loài dã thú lớn thống trị trong rừng sâu, bọn khỉ réo vang nơi rừng gần, lũ gà mái, công và gà lôi kiếm ăn ven các thửa ruộng, ở đó bọn vẹt xanh ồn ào át hết mọi thứ tiếng”.
Cái miền đất được nhắc đến trong cuốn sách, chính là Tây Nguyên của tôi. Đọc những dòng chữ ấy, tôi đã mường tượng về một kỉ nào đó đã trôi qua rất lâu trong quá khứ, với những thân cây ma quái, những loài vật kì dị, khổng lồ. Nhưng không. Đó là Tây Nguyên của những năm đầu thế kỉ XX.
Tôi luôn gọi miền đất này là “Tây Nguyên của tôi”. Bởi trong những điều khiến tôi mê đắm, luôn có sự hiện hữu của những cánh rừng.
Bắt đầu từ những lời kể. Người ta kể chuyện cho nhau nghe từng giờ. Nhưng cái cách vừa kể chuyện vừa băng qua những miền đất đã từng lưu giữ kỉ niệm, nó mang những xúc cảm rất riêng biệt. Đó là những chuyến tôi được trở lại chiến trường xưa cùng cha tôi và những đồng đội đã từng vào sinh ra tử với ông. Cha tôi, người lính đã từng được những cánh rừng che chở, nuôi giấu, thậm chí cứu sống, vẫn còn vẹn nguyên niềm xúc động mỗi khi kể lại chuyện ông đã từng, không phải một, mà mấy lần suýt mất mạng nếu cái thân cây rất to ngay chỗ ông ẩn nấp không hứng lấy mảnh bom vừa nổ tung. Ông dang rộng hết vòng tay mình ra và làm động tác như đang ôm lấy cái thân cây giữa mịt mùng rừng núi ấy. Cái thân cây to đến độ, ông và đồng đội chui vào nấp trong các hốc rễ, mà bom đạn chỉ có thể phạm vào một phần thịt gỗ thôi. Sống giữa rừng, bao ngày tháng ấy, cha tôi và đồng đội của ông đã dựa vào rừng mà trở về, lành lặn.
Một câu chuyện khác. Giữa một đêm hun hút gió và rả rích mưa. Gió và mưa Tây Nguyên được ai đó ví như một loại “đặc sản” của miền bazan này. Trong ngôi làng nhỏ nằm nem nép sát cạnh một cánh rừng. Đêm ở làng sâu và tĩnh lặng. Ngọn lửa giữa gian bếp trong ngôi nhà sàn chỉ đủ hắt lên chút ánh sáng vàng vọt, lúc tỏ lúc mờ. Ngoài trời, đêm vẫn đặc như có thể xắt ra từng mảng. Già Thin, nước da nâu như phết đồng, say sưa kể chuyện cách mạng. Thỉnh thoảng ngọn lửa bùng lên, hắt ánh sáng vào đôi mắt tinh anh của già. Già kể về những ngày luồn rừng đi tìm muối. Đó là những ngày ngôi làng của già phải liên tục sơ tán. Có những lần phải lui vào mãi tận lõi rừng. Nếu không có kinh nghiệm sống với rừng, sẽ không thể sinh tồn. Già và mọi người đã tìm những khoảng rừng nghèo, phá bỏ cây cối để trồng cây mì và lúa rẫy làm kế sinh nhai. Họ lấy cỏ tranh phơi khô, rồi đốt lấy tro để dùng thay cho muối. Có những chuyến đi tìm muối mấy tháng trời mới về được đến làng. Thế mà họ vẫn nuôi giấu được cán bộ cách mạng. Sau giải phóng, có cán bộ ở lại, lấy con gái làng làm vợ. Đó là những ngày tháng cơ cực, nhưng rất đáng nhớ. Nhớ để kể lại cho mấy đứa nhỏ biết cái khổ là như thế nào. Mấy đứa nhỏ ngồi quanh bếp lửa đêm ấy, cũng như tôi, chỉ biết ngồi lặng im, như ghim chặt vào đêm.
Đời sống của người Tây Nguyên trước đây gắn với rừng ngay từ lúc chào đời. Thai phụ khi sắp đến ngày sinh sẽ tự mình vào rừng chuẩn bị chỗ để chào đón đứa con trong bụng. Họ tự hoàn tất việc sinh nở một mình. Tôi cũng là phụ nữ, cũng đã từng sinh con. Tôi đã mường tượng đến cảm giác kinh khủng ấy của một người phụ nữ trong cuộc vượt cạn, giữa bạt ngàn rừng. Họ tự mình dựng lán, sinh con trong tư thế đứng, tay vịn vào cột lán, trong những cơn đau dữ dội, chỉ có rừng làm chứng nhân. Rồi người mẹ ôm con xuống suối tắm, chờ đứa con cứng cáp thì bế về làng. Thử hình dung những cuộc vượt cạn của tất cả những người phụ nữ khi mọi thứ còn hoàn toàn thuận theo tự nhiên ấy, có bao nhiêu cuộc đã không thành công. Hoặc là người mẹ, hoặc đứa trẻ, hoặc là cả mẹ cả con phải vĩnh viễn nằm lại giữa rừng. Jacques Dournes đã gọi miền đất này là “Một xứ sở của những người đàn bà ở trong rừng”. Không phải họ sống trong rừng, mà khung cảnh của xứ sở này là rừng. Những cánh rừng bạt ngàn đã ôm ấp, chở che, nuôi dưỡng cả thể xác và tâm hồn con người. Đứa trẻ ngay khi vượt qua tất cả những thử thách cùng người mẹ trong cuộc vượt cạn ấy, sẽ nằm trong chiếc địu đeo trên người mẹ để cùng lên nương. Bàn chân chúng ngay khi vừa chạm đất cũng bắt đầu nhuộm đỏ thứ đất rừng. Và suốt cả cuộc đời mưu sinh, tất cả mọi công việc đều gắn với rừng. Những nghi lễ diễn ra suốt một đời người sẽ luôn có rừng làm nhân chứng. Cho đến nghi lễ cuối cùng kết thúc vòng đời của một con người (lễ Pơthi-bỏ mả), cây rừng sẽ được những đôi tay khéo léo chế tác thành những pho tượng gỗ đứng quanh nhà mồ để làm bạn với linh hồn người đã khuất. Sinh ra từ rừng, về cõi khác làm bạn với rừng. Đời một người Tây Nguyên khép kín trong không gian rừng thân thương như vậy.
Văn hóa của người Tây Nguyên gắn với văn hóa rừng. Rừng là chốn thiêng, vừa gần gụi, vừa tôn kính đối với con người. Họ dựa vào rừng để sinh tồn. Đất để làm nương rẫy và đất dựng làng đều được cắt ra từ rừng. Nhưng họ chỉ lấy của rừng vừa đủ để sống, không lãng phí cũng không tàn phá. Họ sáng tạo ra rất nhiều huyền thoại, với những nhân vật kì dị kiểu “thần rừng”, như lời nhắc nhau phải tôn trọng rừng. Họ có hẳn lễ cúng rừng hàng năm, với những nghi thức thành kính và tôn nghiêm. Nhưng rồi, rừng đã lùi xa dần, và gần như đi vắng khỏi đời sống đã từng ngồn ngộn trong không gian thăm thẳm màu xanh của rừng ấy. Tôi đã từng cảm thấy như lạc hẳn đi, khi mất cả ngày đường mới trở lại được một ngôi làng cũ mà trước kia đã có lần ghé qua. Những ngôi nhà sàn bằng gỗ đã biến mất, thay vào đó là nhà xây kiên cố, nền lát gạch hoa. Cả ngôi nhà rông bằng gỗ cũng được thay thế bằng ngôi nhà bê tông kiên cố. Cột kèo xi măng cốt thép sơn màu giả gỗ phía ngoài. Không gian ấy lạc lõng giữa miền bazan, như khảm vào lòng nỗi tiếc nuối chỉ muốn hắt ra một hơi thở thật dài.
Những cánh rừng đã đi về đâu? Câu hỏi vang lên âm âm giữa những ngọn núi, quả đồi trọi trơ toàn đất đá. Con người đã ứng xử với rừng ra sao? Và lỗi thuộc về ai trước sự lùi xa và vắng bóng dần của những cánh rừng? Ngàn vạn điều muốn nhận được câu trả lời thật thỏa đáng. Những cánh rừng dần vắng bóng khỏi đời sống của con người, hay chính con người chúng ta đã tự đi vắng khỏi cái không gian thăm thẳm đại ngàn đã từng hiển hiện ấy? Không còn rừng, không còn cây cối để dựng nhà dựng cửa, để tạc tượng nhà mồ… Không còn không gian để những đêm lễ hội nghiêng say chiêng ché, bước chân con trai con gái xoay tròn dưới những tán cổ thụ luênh loang trăng… Và văn hóa, theo đó, cũng dần mất đi, lặng lẽ.
Rồi chính con người, sẽ phải tự tìm câu trả lời, bằng sự bù đắp lại những gì chúng ta đã vay mượn, đã lấy đi.
Đào An Duyên
Đánh giá bài viết
Bài viết liên quan: