Biên giới, ấy là dải hành lang giới hạn không gian sinh tồn của của dân tộc Việt Nam, là vùng cương thổ đầy cam khó và khắc nghiệt với những trận giao tranh bảo vệ cõi bờ. Dải đất biên cương nước Việt trải mấy nghìn năm đã là nơi nương tựa an toàn cho các bộ tộc thiên di từ hải đảo phía Nam lên và từ phương Bắc xuống, ước tính quy tụ khoảng trên 40 sắc dân với nhiều hệ ngôn ngữ khác nhau. Gần 20 năm gắn bó với những nẻo đường biên giới, hành trình nối tiếp hành trình… tôi đã đi để cảm nhận được hết vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc, để nghe trong tở mở đất trời, trong rì rào suối hát và lá rừng ngân rung, để tìm đến những tảng đá, những cột mốc minh định giang sơn trên những đỉnh cao ngút ngàn, rừng già sương giăng mây phủ. Và núi rừng biên cương, cùng với sự kỳ ảo như chính nó và sự đa dạng của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa, là tạo nên những “dấu thiêng” mang khát vọng tự do, no ấm của biết bao đời người.
Trên biên giới Quảng Ninh, tương truyền đỉnh núi Cao Ba Lanh là nơi những hành dinh đầu tiên của nhà Lý được xây dựng để thực thi sứ mệnh thiêng liêng trấn giữ vùng cửa ngõ phương Bắc quan trọng bậc nhất của quốc gia Đại Việt. Từ xa xưa, có một vị vua hiền đã ban chiếu đặt một hòn đá có khắc niên hiệu đặt lên đỉnh Cao Ba Lãnh. Chiếu dụ viết rằng, hòn đá phải được đặt trên đỉnh núi cao nhất để đánh dấu bờ cõi nước Nam bắt đầu từ đó. Lệnh triều đình về đến Châu, rồi xuống các Lộ để quan binh theo đó mà cắt cử các suất đinh mang hòn đá lên đỉnh núi. Đã có bao người đi rồi nằm lại nơi lam sơn chướng khí, nhưng hòn đá đã được đặt trên đỉnh cao 1.500m so với mặt nước biển hàng trăm năm có lẻ.
Đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới này hết sức trân quý “Đàn đá thần” được hình thành từ nhiều hòn đá lớn với nhiều hình thù khác nhau, gắn với truyền thuyết chống giặc, cướp từ bên kia biên giới của đồng bào. Cạnh đàn đá còn có đôi rùa đá đang kỳ sinh nở hướng ra hồ nước. Cách đó không xa là tượng nhân sư hướng mặt về bản làng để bảo vệ dân làng, bảo vệ quê hương. Khi phát hiện những biểu hiện bất thường, người phụ trách việc canh phòng sẽ gõ vào đàn đá để tạo nên những tiếng kêu truyền tin cho dân bản biết để chuẩn bị chống trả kẻ thù. Tiếng đàn đá truyền trong lòng núi, cộng hưởng với nước hồ tạo nên những tiếng gầm đáng sợ, trấn áp tinh thần giặc cướp. Âm thanh từ “đàn đá thần” dẫu không thật hay, thật dịu êm, tinh khiết như lời hát, tiếng đàn, nhưng có bài ca nào, khúc nhạc nào quý giá hơn lòng yêu nước và tinh thần chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cõi bờ. Nghe tiếng đàn, gặp những người dân thuần hậu nơi đây, tôi thêm hiểu, đường biên giới trong lòng dân còn vững chắc hơn bất cứ loại vật liệu, ranh giới hữu hình nào.
Dưới chân Cao Ba Lanh, đình Lục Nà thờ “Khâm sai Đông đạo tiết chế” Hoàng Cần nổi bật với lối kiến trúc nhà sàn của đồng bào Tày kết hợp với mái ngói âm dương, đôi rồng chầu nguyệt, mái đao đình cong vút… Nhân dân trong vùng vẫn luôn nhắc đến sự tích “cây tre mọc ngược” để kể về chiến công của ông cùng trai tráng trong bản ngoài mường bảo vệ miền đất của hoa sở trắng. Vị tướng người Tày này đã cùng đội quân của mình dùng gậy tre tả xung hữu đột đánh tan quân giặc xâm chiếm biên cương. Khi ông mắt, nhân dân suy tôn ông là thành hoàng của một vùng, cây gậy tre khô cắm ở góc đình bỗng đâm cành trổ lá, nhưng mắt tre, cành tre hướng xuống đất thành cây tre mọc ngược. Tiếp nối sứ mệnh của người xưa, tháng 11 năm 1945 tại ngôi đình này đã diễn ra cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức để tuyên bố thành lập Chính quyền Cách mạng Lâm thời huyện Bình Liêu.
Từ sống núi khủng long nối mạch về Tây, một vùng non sông cẩm tú hiện ra choáng ngợp khi đứng trên đỉnh thiêng Mẫu Sơn thuộc địa phận tỉnh Lạng Sơn. Một quần thể 80 ngọn núi trùng điệp ruổi nối nhau giăng thành dựng lũy, một vùng đất địa đầu ấy có một đặc điểm riêng có là những đỉnh cao nhất, linh thiêng nhất không mang tên loài cây, loài hoa, tên con vật hay tên con người, mà được đặt theo chức danh của một gia đình như núi Cha, núi Mẫu, núi Con và núi Cháu. Truyền thuyết về sự ra đời của Mẫu Sơn gắn với một câu chuyện tình bi ai thời chiến trận xa xưa. Nhưng rồi, lòng chung trinh của người vợ lính đã được Ngọc Hoàng chứng giám, sự ân hận, dày vò của người chồng đã được Ngọc Hoàng đoái thương mà cho gia đình đoàn tụ mãi mãi, tạo nên quần thể Mẫu Sơn độc đáo.
Người dân Mẫu Sơn thường ví, những giọt máu đào của người Mẹ đổ xuống đã thấm vào đất núi, làm nên cánh bích đào Mẫu Sơn thắm đỏ trong sương giá biên thùy; tình yêu thương của người Mẹ đã làm cho trái đào Mẫu Sơn thơm ngọt như bầu sữa; những dòng suối uốn quanh sườn núi là máu oan khuất của người Mẹ, là nước mắt ân hận của người Cha, đã trở thành dòng nước lành nuôi sống bao thế hệ trong cộng đồng các dân tộc Dao, Tày, Nùng, là nguồn nước tạo rượu Mẫu Sơn tinh khiết. Trên sườn núi Mẹ còn có khu linh địa cổ nằm trên sườn núi Mẹ, là khu đền thờ thần trấn giữ núi Mẫu Sơn, được xây dựng vào thế kỷ X với những công trình đá lớn đồ sộ, cho thấy kỹ nghệ và khả năng xuất sắc trong xây dựng của người xưa.
Đi tiếp đến khu vực Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị, nằm cách cột mốc 1116 chưa đầy 2km là bia Thủy Môn Đình, một trong những bảo vật quốc gia và cũng là minh chứng về sự cống hiến, hi sinh của cha ông ta trong bảo vệ cương thổ, bờ cõi. Bia Thủy Môn Đình được Đô Tổng Binh sứ Ty, Bắc quân Đô đốc phủ, hữu Đô đốc, Thao quận công Nguyễn Đình Lộc lập vào năm Cảnh Trị thứ 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông. Điều làm nên giá trị đặc biệt của tấm bia chính là nội dung văn bia chứa đựng thông tin, tư liệu vô cùng quý giá về tên gọi, chủ quyền lãnh thổ của đất nước ở nơi địa đầu Tổ quốc. Trên văn bia có câu: “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan” – dịch nghĩa là: Đây là cửa ngõ và yết hầu của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc. Trên lòng bia là bài ký được khắc bằng chữ hán với với chủ đề chính là “Liên kết để tồn tại“, chứa đựng giá trị nhân văn cao cả, thấm đẫm tư duy, đạo lý truyền thống, trong đó còn ghi rõ về “Thất tộc thổ ty” nổi tiếng của xứ Lạng đã đoàn kết, gắn bó để bảo vệ biên cương.
Trên cao nguyên Đồng Văn, tôi có dịp được dự một số lễ hội truyền thống của người Mông và nhận thấy trong các bài văn khấn của đồng bào đều có nhắc đến công ơn của người Lô Lô cổ đại và thực hiện nghi thức mời cơm tổ tiên người Lô Lô. Vốn biết ngoài tổ tiên của mình, hiếm khi người Mông thờ cúng những dân tộc khác, nên tôi đã hỏi nhà thơ Hùng Đình Quý, người dân tộc Mông và đồng thời cũng là chàng rể quý của người Lô Lô. Ông khẳng định: “Hơn Ba trăm năm trước, trong bối cảnh người Mông bị đánh đuổi, phải bỏ phương Bắc để chạy về phương Nam, trong tay không một tấc đất, bất chấp sự nguy hiểm đang rình rập phía sau, người Lô Lô đã mở rộng vòng tay, cưu mang người Mông, nhường đất của mình để người Mông có đất sinh sống.”
Hẳn là vì thế, mà hàng trăm năm qua, dù tính cách, phong tục tập quán rất khác biệt, song dân tộc Lô Lô vẫn sống xen giữa cộng đồng dân tộc Mông một cách hiền hòa, gắn bó. Bản Lô Lô Chải và bản tột Bắc Séo Lủng nằm gần sát bên nhau như lời cam kết nhường đất năm xưa, cùng canh tác trên thung lung trồng ngô có tên gọi theo tiếng Mông là Long Cư. Tất cả ngời lên một sức sống bền bỉ, trường tồn nơi biển đá. Bên bếp lửa, cụ Lan Chia, già làng người Lô Lô kể cho chúng tôi biết rằng, năm 1991, cán bộ và nhân dân các dân tộc Lũng Cú đã tỏa đi khắp các vùng rừng, lên những mỏm núi cao nhất, xa nhất để tìm cho được một cây pơ mu cao gần 13m, thân thẳng đứng như mũi tên hướng lên trời kiêu dũng. Gần hai mươi trai tráng sức vóc như con trâu mộng cưa cây mất hai ngày rồi cũng chính những đôi vai ấy đã nâng bổng thân cây nặng hàng tạ để đưa lên đỉnh núi Rồng làm cột cờ bằng gỗ đầu tiên. Người dân Lũng Cú hồn hậu, sức vóc dẻo dai ấy đã đi qua cái đói, vượt qua cái rét và bệnh tật hoành hành để bám trụ trên mảnh đất biên viễn quê nhà. Tổ quốc đặt lên vai họ sứ mệnh đứng chân tại vùng đất này nên tất thảy đều kiên gan bám trụ, không ai muốn rời bản mà đi.
Vâng, chính những con người nhỏ bé đó đã từng đi vào trang văn của nhà văn Nguyễn Tuân khi ông đến thăm Lũng Cú rằng: “Gặp được những người đồng chí như họ, ta thấy núi non mình tốt lành, đẹp khỏe”. Dưới chân cột cờ Lũng Cú, bài ca đoàn kết của tổ tiên Mông, Lô Lô vẫn đang được đắp xây bằng những câu chuyện xây dựng và bảo vệ biên giới hôm nay. Điệu khèn Mông dìu dặt và tiếng trống đồng Lô Lô vẫn hòa ca báo hiệu biên cương yên bình và no ấm. Để ngắm đỉnh núi Rồng, từ xa, ta có thể đi trên sông Nho Quế bằng thuyền độc mộc, vừa ngắm cảnh, vừa nghe người lái đò kể truyền thuyết bí ẩn vùng núi cao. Mặt nước ngày ngày soi bóng cờ bay, khi nhìn lên, ta sẽ thấy trước mắt mình lồng lộng một sắc đỏ diệu kỳ, Ðó chính là lá cờ cuộn bay uy nghi, tất cả đã lý giải sức tồn tại mãnh liệt đến kỳ diệu của dân tộc Việt Nam hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Đánh giá bài viết
Bài viết liên quan: