Đầu phố trăng lên – Tản văn của Nguyễn Ngọc Tung

Tôi sinh ra và lớn lên ở phố huyện. Con phố không dài, nhưng cũng đủ cho tôi thuộc gần hết tên từng ngôi nhà, từng quán hàng, từng cửa hiệu, từng gốc cây, từng ngõ phố. Con phố là căn cước tôi bước vào đời. Phố là tình yêu của tôi. Mỗi khi, ngồi trên ban công ngắm trăng lên từ phía đầu phố. Vầng trăng như một nhân chứng đã chứng kiến bao thăng trầm, bao đổi thay của con phố này.

Bà tôi kể, ngày xưa nơi đây là những ao hồ, đầm lầy hoang vắng; chỉ có cỏ rong, cỏ lác mọc dày. Những người dân tứ xứ về đây buôn bán, làm thuê cho các chủ người Pháp, chủ đồn điền, họ dựng lán tạm để ở. Dần dần, họ làm ăn tích lũy được ít vốn, làm được căn nhà tóc- xi lợp lá cọ. Người khá giả thì xây nhà lợp ngói. Phố lúc đó chưa có số nhà, chưa có vỉa hè, chưa có cống rãnh thoát nước, chua có điện và nước máy. Cả phố chỉ có một cái giếng nước ăn vừa tắm giặt ở cuối phố. Đường đất, sỏi đá gồ ghề. Đêm đến chỉ có ánh đèn dầu leo lét.Thời chiến tranh chống Mỹ, cả phố đi sơ tán về các xã miền núi. Nhà đóng cửa, đêm không một ánh đèn, không một bóng người qua lại. Chúng tôi ra mặt trận. Mỗi lần nghe tin máy bay địch ném bom xuống miền Bắc, là laị lo phố mình có bị ném bom không. Đi xa, tôi mới thấy nhớ con phố nhỏ chừng nào, nhớ mẹ già đêm đêm khơi bấc đèn dầu, lẩm nhẩm lời khói nhang; nhớ vầng trăng mọc lên đầu phố, nhớ bọn trẻ chơi dung dăng dung dẻ trước nhà; nhớ tiếng đàn pi-a-nô du dương lúc về khuya; nhớ gốc cây bàng già đầu phố, nơi chúng tôi vẫn hẹn hò đến lớp mỗi sáng, đi xem phim mỗi tối…

(Ảnh sưu tầm)

      Nhà ở phố không có tiếng gà gáy, không có tiếng chó sủa. Cách sống ở phố cũng khác, mỗi nhà một nghề, mỗi nhà một cửa hàng, cửa hiệu. Việc nhà ai người nấy làm, ít khi sang nhà nhau chơi. Hàng xóm đi viện, hai ba ngày sau, có khi mới biết tin. Anh bạn ở cạnh nhà tôi, có bố mẹ làm nghề thuốc Bắc. Hai cụ quê gốc ở Bắc Ninh lên đây làm ăn từ thời Pháp thuộc, lấy tên hiệu là “Khiêm Ích”. Khách từ nhiều huyện, nhiều xã xa xôi đến kê đơn bắt mạch, cắt thuốc chữa bệnh. Hàng ngày mùi xao tẩm thuốc Bắc thơm nức cả phố. Tôi nhớ nhất nhà cụ có con dao cầu cắt thuốc sắc lẻm, có chiếc cân tiểu ly để cân thuốc nó mờ cả các con số. Ở giữa phố, có hiệu sách lớn mang biển “Hiệu sách Trí thức Việt”. Ở đó có bán nhiều sách quý, tôi hay sang tìm mua về đọc, nào là: Tam quốc diễn nghĩa, Hồng Lâu Mộng, Tây du ký, Thủy hử; nào là: Sông Đông êm đềm, Tắt đèn, Giông tố, Truyện Kiều, Tống Chân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa,vv…Nhờ cửa hàng bán sách này, mà mẹ tôi thuộc cả quyển Truyện Kiều dài hơn ba nghìn câu lục bát. Đối diện nhà tôi, có ông họa sỹ chuyên vẽ tranh bờ hồ để bán. Ngày ấy tranh bờ hồ bán rất chạy. Ngày tết ông vẽ không kịp bán cho khách. Cạnh đó cũng là một họa sỹ chuyên vẽ truyền thần. Tôi biết, ngày Bác Hồ mất, ông ngồi vẽ cả đêm tấm chân dung Bác Hồ trên khổ giấy lớn A0 để kịp sáng ra cho tổ dân phố làm lễ truy điệu Bác. Một cửa hàng bán đồ thể thao, bà cụ nay đã ngoài bảy mươi kể lại: Xưa phố huyện có đội bóng đá, chồng bà từng là cầu thủ trung phong, ghi nhiều bàn thắng đá với các đội Hải Phòng, Thái Nguyên, Thể Công hồi đó. Bà làm nghề khâu bóng da, quả bóng có véc-xi là cái xăm bóng để bơm hơi. Gia đình bà chuyên khâu bóng và giặt là quần áo số cho đội bóng phố tôi. Ở cuối phố còn có hiệu ảnh “Hoa Hồng”. Tôi còn nhớ, mấy đứa chúng tôi ngày chuẩn bị lên đường đi chiến đấu, rủ nhau đến chụp vài kiểu ảnh kỷ niệm. Lúc đó chỉ có ảnh đen trắng, máy ảnh to như cái hộp, bác thợ ảnh phải trùm miếng khăn đen che ánh sáng để chụp. Cái ảnh nào cũng cắt răng cưa xung quanh. Bây giờ tôi còn giữ chiếc ảnh đen trắng ngày nào, trông mình ngày xưa thật ngộ nghĩnh và xa lạ… Tôi nhớ nhất là ngôi nhà đầu phố, hai ông bà nhà giáo, có cô con gái là Mai. Mai học sau tôi hai lớp. Một lần xe đạp của Mai bị thủng lốp, gặp em đi bộ, tôi đèo em về nhà. Từ buổi đó, Tôi và Mai quen nhau, Mai thường sang nhờ tôi giải bài toán khó, nhờ tôi gợi ý làm bài văn nghị luận. Ngày biết tin tôi sắp lên đường vào Nam chiến đấu, Mai rủ tôi đi dạo ven hồ. Trăng lên đầu phố, đi bên em, mùi thơm lá sả từ suối tóc dịu dàng, xao xuyến, đến giờ tôi chẳng thể quên. Em tặng tôi quyển sổ tay, tự tay em chép vào trang đầu tiên bài thơ “Đợi anh về” của Xi Mô Nốp. Cuối bài thơ là chữ ký của em với nét bút mực tím, trên đầu từ I chữ Mai có dấu chấm hình ngôi sao nhỏ, đó là ngôi sao Mai tôi mang theo suốt đường dài chiến dịch. Sau này tôi được biết, Mai cũng đi Thanh niên xung phong, vào mở đường Trường Sơn. Tôi và em gửi cho nhau một vài lá thư, chúng tôi hẹn nhau ngày chiến thắng sẽ về phố huyện . Nhưng trận bom của Mỹ đã ném xuống đơn vị làm đường của em vào một đêm trăng sáng. Em đã hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ. Biết tin em ra đi, tôi đã không cầm được nước mắt. Bài thơ “Đợi anh về” tôi đã thuộc như nuốt từng câu, từng chữ em viết. Nét chữ “Phố huyện, ngày…tháng…năm” và chữ ký có ngôi sao Mai nho nhỏ, vẫn còn tươi nguyên màu mực tím. Màu của tình yêu và đợi chờ.

Bây giờ phố huyện của tôi đã khác xưa. Nhà cửa đã lên tầng, mái bằng, mái dốc, cao cao. Phố huyện nay đã có đèn đường, có vỉa hè lát đá, có cống rãnh thoát nước, mặt đường đã rải nhựa. Đêm nay, phố đã lên đèn, vầng trăng đầu phố đang lên.Tôi lang thang trên phố, nghe đâu đây bản nhạc Sô- nát như quen, như lạ. Nhưng không phải phát ra từ căn nhà mái ngói xưa cũ, mà từ tầng năm ngôi nhà mới. Khu phố này, nhiều chủ nhà cũng đã chuyển lên tỉnh mới, sau đợt sắp xếp lại các đơn vị hành chính, bỏ cấp huyện, sáp nhập xã, sáp nhập tỉnh. Nhiều nhà đã chuyển đổi nghề, mở mang cửa hàng cửa hiệu, một số siêu thị mi ni mở ra, một số nhà cho thuê làm trụ sở Ngân hàng, Phòng khám đa khoa, Lớp dạy tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật… Tôi dừng lại ở quán cà phê, ngồi nhâm nhi ly cà phê đen Trung nguyên, thơm nồng.Vầng trăng đã lên cao. Đâu rồi những khuôn mặt thân quen? Người phố, ai còn ai mất? Trăng phố với tôi như hình với bóng. Hình như trăng muốn nói với tôi điều gì sâu thẳm. Quá nửa đời tôi xa quê, nhưng phố huyện vẫn dâng đầy sức sống, mặc dù huyện không còn tên nữa, nhưng những ký ức về con phố thân thương này vẫn đằm thắm trong trái tim tôi. Mùa này, hoa sữa thơm thoang thoảng, tôi chợt nhớ bài hát “Hoa sữa” mà tôi và Mai vẫn hát : “…Hoa sữa vẫn ngọt ngào đầu phố đêm đêm/ Có lẽ nào anh lại quên em/ Có lẽ nào anh lại quên em”. Bỗng một hồi còi tàu rúc lên, ngân dài trong màn đêm huyền ảo. Tàu rời ga phố huyện, lao vun vút về phia vầng trăng đang lên, vầng trăng như nốt nhạc đầu phố ngân rung dịu êm.

NNT