Cựu Sơn  

Làng Di hưởng nguồn sinh khí từ ngọn Cựu Sơn, người làng vẫn thường gọi là Núi Cựu. Cựu Sơn linh thiêng là niềm tự hào của người trong vùng và người làng Di luôn cho rằng làng mình chính tâm hưởng lộc. Vì khi đứng bóng cây đại già trên đỉnh núi chỗ ngôi miếu và bàn cờ tiên chiếu xuống làng Di chứ không chệch sang làng khác. Cựu Sơn không cao, cây thưa, sản vật nghèo nhưng Cựu Sơn ẩn chứa những bí mật mà người làng Di vẫn truyền tai nhau cùng những hào hứng và hy vọng. Ai cũng tin rằng khi thần linh báo ứng, thiên hạ sẽ biết mặt người làng Di. Làng Di sẽ nổi danh, mở mày mở mặt với thiên hạ chứ không đìu hiu như xa gần vẫn tưởng.

Lời như gió thoảng mà thấm tâm can người làng đến tận thời nay.

Gió từ Thuận Giang thổi về gặp núi u u. Xưa, một năm chỉ cấy nhất vụ lúa, lâu nay đã cấy đủ cả chiêm, mùa lại còn xen canh hoa màu. Gái làng tần tảo đã nhiều đời, nhưng họ cam chịu và lạc quan, mong đổi đời khi người trong nhà, trong họ gặp vận. Con trai mang danh tiếng về làng hoặc con gái có thể lấy được chồng giàu sang.

Người làng Di mong mỏi khôn nguôi, bằng chứng là số lượng giai đinh họ nào cũng tăng theo năm. Những ô ruộng phần trăm được xây cất nhà cho những đôi vợ chồng trẻ đã kín. Chính quyền địa phương biết vậy nhưng vẫn cho qua vì làng cổ, ngõ bé làm sao kham hết những gia đình mới. Chả nhẽ cứ nhốt nhau mãi trong làng thì người trong nhà, trong họ cãi nhau mà hết ngày còn ai lao động sản xuất lấy cơm ăn, áo mặc.

Làng Bùi xã bên ngăn cách với làng Di bởi ngòi Con Bút. Ngòi nằm hẳn về phía tả gốc sữa cổ thụ nên mọi người đều hiểu ngòi Con Bút thuộc về làng Bùi.

Làng Bùi có nhánh sông cụt tạo nên cái đầm lớn, cho bầu không khí của làng thoáng đạt với những cơn gió mùa Hạ mát rượi. Đầm làng Bùi là vựa cá tôm nên trai làng Bùi giỏi chài lưới, bắt cá, đen trũi cả lượt, nhưng gái làng ấy lại trắng nõn, mặt hoa da phấn cả, thế mới tài. Có người giải thích, làng Bùi hưởng lộc thần sông, không bỗng dưng có cái đầm để dân làng Bùi bao đời thoát đói nghèo. Giai làng Bùi đen đủi nước da nhưng thông minh, đĩnh ngộ, tính khí đường hoàng. Họ ra thiên hạ luôn được tiếng thơm. Người làng Bùi khiêm nhường, không lớn tiếng nhưng cả hình thức lẫn tài danh lại có phần hơn người làng Di. Dù rằng 2 làng thờ chung 1 thánh, nhưng sự ấm ức của người làng Di là có chứ không thể nói là không.

Năm đó có cô gái người họ Nguyễn làng Bùi lấy anh trai họ Đặng người bên làng Di. Gái có sắc vào hạng nhất làng mà đem gả cho người làng Di xấu người lại cũng chưa thấy tài cán gì, chỉ nghe nói họ Đặng thoát ly lại con nhà quan chức. Giai làng Bùi hậm hực, có người bảo “Trông mặt mà bắt hình dong, tướng người mắt trợn, môi thâm thì, vui buồn 1 vẻ, khôn lường”.

Bực vì gái đẹp trong làng bị nẫng mất thì nói thế chứ người hàng quan đón dâu về tỉnh thì mấy ai dám bì. Đám thoát ly có học nói tiếng Tây xì xồ, đọc dịch cả quyển sách, quyển thơ thì vẫn mặc quần tích kê, áo rách cổ sao sánh được con nhà quan tỉnh. Chuyện loai thoai mãi cho đến tận khi cái chân trắng nõn của cô Tuất – gái một con – về làng báo hiếu xây nhà cho mẹ cha, xin cho em đi học sơ cấp trên tỉnh thì lời qua tiếng lại mới bớt hẳn.

Rồi người làng lại xì xào: Mẹ tiên con cú thật cám cảnh. Thằng cu không giống mẹ được điểm nào, tông giống kia mạnh, bé tí mà mồm đã thề lề, lại mắt lồi. Nhưng may mà con trai, chứ con gái thì tệ quá.

Hàng quan giàu có, ai chấp lời ganh ghét. Chê thế chứ chê nữa thì người họ Nguyễn cũng đủ danh giá khi thông gia họ phất lên, con gái họ thành người trong cửa nhà quan. Cô Tuất đẻ đứa con thứ 2, là gái, gương mặt vẫn không giống mẹ điểm nào.

Ngòi Con Bút trong vắt, nhìn thấy cả từng con ốc bám rêu dưới đáy. Những khóm khoai nước tím lá xanh um. Trai làng Bùi cũng nhiều người học cao, làm  tiến sỹ bên Tây, đi xe máy pình pình về làng. Làng Di xưa nay đường học không bằng, giờ vẫn thế. Ngay cả người họ Đặng, đường học cũng thua xa cánh họ Nguyễn, họ Bùi, họ Phan bên làng Bùi và kém xa mấy làng khoa bảng bên sông.

Dẫu hy vọng cũ vẫn luôn sẵn trong tâm can người làng Di, nhưng xem ra việc người làng Di được chọn vẫn bằn bặt. Người họ Đặng thành danh, của tiền hơn người nhưng dung mạo không hơn cánh trung niên làng Bùi. Có người còn nhìn ra cái ấm ức của đám con nhà có của mà kém sang.

Một ngày, người cả 2 làng hay tin cô Tuất dâu họ Đặng hưng công trùng tu miếu Cựu và xây điện Mẫu kế bên. Người làng Bùi nín thở nghe ngóng. Xưa nay vẫn tính con gái là con người ta. Giờ quyền phép trong tay họ Đặng, nên con dâu trưởng đứng lên làm việc này cũng là phải lẽ. Xem ra người làng Bùi khó lòng từ chối sự vẻ vang này.

Trăng mùa Hạ đổ xuống núi Cựu, ánh trăng vàng trải khắp các làng gần xa. Hương hoa mùa Hạ thơm mát cả núi, thơm suốt những con đường cho đến sân, rồi vào tận trong mỗi ngôi nhà ngỏ cửa.

Dâu họ Đặng về làng Di với đoàn các nhà khoa học, nhà khảo cổ và thầy địa lý để khảo sát trùng tu miếu Cựu.

Miếu Cựu nhỏ, rêu phủ, mái giột hoang sơ cùng gió nắng, sao giời. Miếu Cựu cất giữ những điều thánh nhân có thể sang tai, có thể không bao giờ hé lộ. Bí mật tìm nhân duyên, phải chăng đã đến thời?

Nói dâu họ Đặng ai cũng biết mà nói cô Đồng Tuất thì người trong làng còn ớ ra chưa biết là ai. Không biết cô cúi đầu trước cửa Thánh Mẫu từ bao giờ mà nay đã trơ trơ ngồi chỗ ban thờ Mẫu trên núi Cựu như thể muốn minh chứng sự nhất tâm của mình là định mệnh. Thân xác cô như muốn hóa thành một cành cây đại rêu phủ ở chốn này. Theo thiết kế Miếu Cựu sẽ là nơi thờ thánh, điện thờ Tam tòa sẽ được xây mới chứ không sơ sài chỗ gốc si bên cánh tả.

Dâu con nhà quan cũng không thoát khỏi cơ đày. Từ giờ trở đi cô sống thế nào với làng với nước trở thành mối quan tâm của bách gia chứ không chỉ khoanh vùng trong họ Đặng.

Đôi bàn chân người đàn bà trung niên bước đi trên cỏ ràn ràn, bàn tay búp măng của người đàn bà thoát ly đồng đất múa thật khéo trong ánh trăng. Không thầy nào dạy Tuất cả mà là Mẫu về, Mẫu dạy con mình múa hát. Mẫu ôm lấy con mình, che chở cho linh hồn yếu đuối và trong trẻo này để có một đồng Tuất là đây, tự do bay trong khuôn viên cửa Mẫu, trong suối trăng vàng chảy xuống nhân gian thanh cao và cứu rỗi.

Núi Cựu nóng ran, cỏ sắc cào thấu da thịt người. Rồi không lâu sau Núi Cựu buốt lạnh, gió như roi vọt quất vào thân xác đồng Tuất. Tất cả như để thử lòng, để Tuất chứ không phải ai khác lựa chọn từ bỏ hay dấn bước. Tại Tuất chọn lấy người làng khác, tại Tuất chọn cửa quan làm dâu hay Tuất phải trả nghiệp cho mình, cho những ai?

Vầng trăng chao đảo trên đầu. Tuất thiếp đi trong giấc ngủ kỳ lạ. Tỉnh dậy thấy đầu mình nhẹ bẫng, trơn tru không tơ vương đến cửa nhà quan. Tuất không hề thấy tiếng ai oán, không thấy mùi tanh của máu, không có cả những linh hồn đòi nợ. Tuất biết mình phải đi lối nào cho dù từ đây cả họ hàng, cả thiên hạ có dè bỉu thì Tuất vẫn cam lòng.

Cái cây trên đỉnh núi đung đưa, không phải từ gió, Tuất hiểu, Tuất cảm nhận được sư bảo bọc của Mẫu. Mẫu sẽ đón nhận Tuất trong tình yêu thương mà bấy lâu nay Tuất khát khao. Thân xác, tâm hồn, danh lợi, là ngọn gió, là cỏ cây chặng ấy. Nghiệp cũ đã xong, giờ tấm thân này nương cửa Mẫu, tâm hồn Tuất không vướng bận những đồng vàng hay những câu chuyện tại tư gia ấy nữa. Tuất khóc mà giống tiếng tru của con thú cùng đường. Phải, Tuất đã cùng đường, Tuất đang rũ bỏ. Rồi Tuất cười sằng sặc, dưới ánh trăng Tuất đang tự do và Tuất cũng đang sám hối.

Người họ Đặng nhanh chóng trả cho Tuất sự tự do. Tuất thuộc về cửa Mẫu đã lâu rồi chứ không phải đợi đến hôm ký giấy ly hôn tại tòa, có cái là cả 2 họ đã kín tiếng mà thôi.

Mẫu dạy cho Tuất nhiều điều hơn, dạy đến đâu Tuất thuộc đến đó. Má Tuất hây hây. Mắt Tuất long lanh ngấn nước, miệng tươi tắn luôn lẩm nhẩm lời câu hát văn. Núi Cựu nắng nỏ, mùi cỏ thơm ngái tan cùng mùi hoa ngòn ngọt. Tuất thấy vời vợi trời xanh, thấy bông hoa đại trên cành. Tuất may mắn là môt bông hoa của chốn này. Bông hoa cứng cỏi, nhất tâm nên mới được Mẫu dang tay ôm lấy.  Cũng trong khi đó, người họ Đặng thăng tiến như diều. Con trai Tuất là cháu đích tôn của dòng họ ấy, dẫu thế nào cũng chẳng phải tranh đua.Tuất càng rảnh rang lo việc Thánh Mẫu.

Nhà khoa học, nhà khảo cổ, nhà nghiên cứu văn hóa… về Núi Cựu đều tâm huyết với công trình trùng tu miếu cổ và họ đều coi đồng Tuất là thủ nhang. Cho dù miếu này thờ đức thành hoàng làng, ban thờ sơn thần lộ thiên và nơi thờ Mẫu chưa bao giờ có thanh đồng coi sóc, đèn nhang hay diễn ra nghi lễ bắc ghế, hầu bóng.

Đồng Tuất thấy vui và trách nhiệm của mình thật lớn. Buổi hầu cuối cùng trước khi hạ giải ngôi miếu cổ Đồng Tuất rất hồi hộp.

Nói là đau tim thì không phải, nhưng Đồng Tuất thấy khó thở, ngồm ngộp và cả hứng khởi trong tâm can. Mẫu về chứng rồi Mẫu đi ngay, khoảnh khắc thật quý báu. Trong vuông khăn đỏ, hơn ai hết Tuất cảm nhận rất rõ điều này nên rất cảm động.

Rồi Đồng Tuất thấy không tài nào mở nổi mắt, hai vai nặng trĩu. Đồng Tuất lắc lư mạnh, sà cả xuống chiếu ngay khi cung văn so dây đàn và hắng giọng. Lý trí còn tỏ như đốm sáng trong cái khăn đỏ thêu phượng và thơm mùi nước hoa. Không ai sang tai cho Đồng Tuất tỏ tường rằng việc trùng tu, mà thực chất là xây mới, mở rộng miếu là thuận lẽ, mọi việc sẽ hanh thông. Cũng không một lời báo ứng về sự phất lên của người làng Di hay người họ Đặng.

Việc khăn áo hay điểm trang hình hài quỳnh quế thạo việc nên rất nhanh, đám cung văn cất lời như giót vào tai, tiếng đàn như khai mở cung đường. Đồng Tuất đắm chìm trong âm thanh ấy. Đồng Tuất bước đi. Đồng Tuất vui vầy. Đồng Tuất ban tài lộc cho những người trong chiếu, ngoài thềm. Cô đồng còn gọi với ra những nhà khoa học, những người nghiên cứu đang ngồi ngoài hiên. Kẻ ái ngại, người bình thản nhận tiền từ tay Đồng Tuất trước bao con mắt của người làng Di, làng Bùi và khách khứa xa gần.

Hồn Đồng Tuất trôi trên sông. Chân Đồng Tuất leo lên núi. Đồng Tuất lại nhón bước chân về miếu làng Di. Cho đến giá hầu cuối cùng thì cậu bé với cây sáo trúc trên tay cũng không nghe được lời tự sâu thẳm núi Cựu, tự Sơn Thần hay một vị tiền nhân nào đó.

Cờ đã trong tay thì chủ động phất. Đồng Tuất không về phố cũng chẳng về làng mà quyết gửi thân nơi này để coi sóc cửa miếu, chờ ngày việc xây dựng được hoàn tất. Tuy không nói ra nhưng Đồng Tuất thầm nghĩ, thánh nhân sang tai đâu có báo trước, biết đâu có ngày lại nhận được lời vàng, ý ngọc.

Mọi người nghĩ gì không biết, riêng Đồng Tuất lại rất kín tiếng sau buổi hầu.  Cũng kể từ đây, khách tập phương về như mắc cửi. Ngay cả khi người họ Đặng lấy vợ mới thì người làng Bùi vẫn tự hào, dẫu thế nào thì con cô Đồng Tuất vẫn là đích tôn của dòng họ đương làm quan ấy.

Miếu Núi Cựu dự là lớn, nhìn lượng gỗ kéo về là biết. Những cột gỗ to đến trọn vòng ôm chất đầy chân núi. Gạch, ngói loại tốt được nhân công nơi xa cần mẫn chuyên chở lên đỉnh núi chứ bà con mấy làng dưới chân núi chẳng phải mó tay. Ai cũng bảo một người làm quan cả họ được nhờ đúng thật, cánh này lao động cật lực, cơm suất đúng giờ có xe chở về, anh em chia nhau ngồi ăn, chuyện đủ nghe, bao ngày mà người làng cứ đoán già đoán non không biết họ biên chế ngành nào, đơn vị nào được điều về giúp việc cho làng.

Cái lán dựng lên để chuyển ban thờ miếu cũ, cánh thợ vẩy thêm cái chái để cô Đồng Tuất ở luôn cạnh đó. Người làng Di, làng Bùi đều thương cô cửa nhà quan chẳng ở, một thân một mình trên núi rõ khổ.

Miếu khởi công vào tháng 2 dư mà qua tháng Ngâu đã xong phần xây, phần gỗ mái thì xe chở về đúng hôm mùng 10 tháng 8 trăng sáng rọi, dân làng ra xem rất đông. Ai cũng ngóng từ lúc dỡ bạt.

Cánh thợ xứ Đoài làm phần mộc là nhất rồi – nhiều người khẳng định thế. Vì nhìn đường nét chạm và làm đố thì không cánh thợ nào bằng. Hậu duệ của thợ làm chùa Thầy, chùa Tây Phương có khác. Dân làng Di, làng Bùi xì xào chuyện đón khách ngày khánh thành, đôi người đã nghĩ đến chuyện bán hàng khi khách thập phương đổ về Núi Cựu.

Nói thế nhưng cũng không phải dăm bữa nửa tháng mà ngôi miếu hoàn tất. Đội thợ xây đi thì cánh thợ ngõa đến, rồng, phượng như bay trên núi Cựu, hổ ngồi nơi cửa phụ, bình phong kín những trang trí từ cuốn thư cho đến cúc dây, hoa thị và âm dương.

Trước ngày ông Táo lên chầu trời thì các cánh thợ mới rút và cũng ngày đó con đường từ chân núi lên miếu Cựu cũng được hoàn thiện. Những cây vạn tuế, cây đơn đỏ cũng đã được trồng hai bên. Ai cũng hy vọng đến mùa Xuân cây cối sẽ xanh tươi.

28 Tết, tay thợ bận áo nâu sòng mới đến lo mấy việc trên nóc miếu. Anh ta tỷ mẩn phết phết, quét quét từng viên ngói trên nóc miếu bằng thứ nước gì đó. Đồng Tuất thi thoảng ra ngóng lên chứ không hỏi với lên làm gì. Hôm sau thì anh ta bắc thang cao để phết quét lên hệ thống ngõa trên trụ cột miếu gồm những phượng và các họa tiết đắp nổi trên bệ đỡ.

Đồng Tuất vẫn luôn để mắt đến công việc của gã thợ này, ngóng lên chăm chú nhìn bàn tay người thợ nơi cao tít. Đỉnh Núi Cựu mà như lối lên giời, mùa Xuân khởi tự lòng người lan sang gió và cỏ hoa. Đồng Tuất thấy xuân thì của mình xa lắc. Thấy những nụ hôn của mối tình đầu tha thiết, ngọt ngào. Anh ấy đã thua thiệt đã không giữ được người mình yêu trước người họ Đặng. Anh ấy yếm thế và thất bại, còn ông ấy lạnh lùng và thô lậu. Anh ấy chết, cùng với người thân những đóa hoa trắng ôm lấy anh trong đớn đau. Cái chết ám ảnh dày vò Tuất thật lâu. Nếu mối tình đầu của anh ấy không phải với Tuất, có lẽ anh ấy không sao cả. Khuôn viên ngôi nhà ấy sẽ thơm hương hoàng lan mỗi độ hè sang. Những đứa trẻ của làng Bùi đẹp xinh và mạnh mẽ sẽ ra đời, chúng kiếm cá lớn ở đầm và lội ngòi Con Bút bắt cá nhỏ.

Tuất miên man trong liên tưởng sợ hãi và thắc thỏm nghĩ rằng mình không đoán sai. Anh ấy đã chết, mơ hồ lởn vởn trên mái tóc đen huyền của Tuất.

Trong đêm đậu thai con bé thứ 2, thật kỳ lạ Tuất lại thấy mình bị phủ bởi bộ lông cáo vàng ươm. Tuất nôn thốc và sợ hãi ông ta từ giây phút đó. Tuất nôn ngay trên gối, nôn cả vào vai ông ta. Ông ta hốt hoảng, còn đôi mắt cáo nhìn Tuất với tròng mắt của con người.

Không ai hiểu căn nguyên, mọi người đều nghĩ Tuất bị ma làm. Những nghi lễ chu đáo, thịnh soạn được mở ra với những thầy cúng cao tay xướng ngôn trầm bổng. Những vốc thuốc được đặt vào lòng tay để Tuất uống đúng giờ.

Con cáo vàng tinh khôn với đôi mắt người nhìn Tuất chằm chặp, mùi máu tanh sộc lên, Tuất lại nôn thốc và mê sảng.

Nếu không có Mẫu đỡ, có lẽ, giờ này Tuất đã chết ở cửa nhà quan với tấm áo lụa vàng vấy máu. Tuất nghĩ vậy và nhắm mắt lại. Cơn gió từ xa thổi về chao đảo tầm nhìn, cái thang nghiêng rồi đổ xuống, người thợ văng ra như chiếc lá lìa cành. Ở đây không có ai ngoài Đồng Tuất, người làng còn lo tết nhất. Mai 29 là 30 – tháng này thiếu – họ mới gánh lễ lên miếu. Đồng Tuất đến bên gã, không thấy chảy máu hay xây xước gì, đến lạ. Độ cao này không dễ làm chết người được. Đồng Tuất để tay lên ngực, lên trán gã rồi nói trong lo sợ:

  • Để tôi đi gọi người dưới làng.

Gã không đáp lời, máu ứa từ 2 bên mép. Máu không tanh, mùi hồ nếp thơm thơm trên tay gã còn rõ. Đồng Tuất lao xuống núi hô hoán trong đứt quãng hơi thở và hoảng loạn.

Người ta đem cáng lên núi, cái chăn đỏ buộc túm 2 đầu lắc lư theo bước chân 2 người làng Di. Đồng Tuất không thể theo gã đi viện được mà chạy như bay về nhà thờ họ Đặng báo tin. Đồng Tuất tin chắc rằng, nếu gã chưa đến số thì người họ Đặng sẽ có trách nhiệm và sẽ làm tốt việc cứu sinh mạng này.

Quả đúng, gã không chết, hậu quả của cơn đột quỵ nhưng việc cắn vào lưỡi khiến gã thành kẻ tàn tật. Kẻ tàn tật ngô ngọng này ngồi xin ăn ở tam quan, nơi bóng phượng đổ xuống, ngay lối chính lên miếu. Không ai nỡ đuổi gã, kể cả các cấp chính quyền và ban quản lý. Mùa Xuân năm đó nồm ẩm kéo dài, việc gã vô danh lang bạt phết hồ lên công trình thật hữu hiệu, rêu xanh bám lấy ngói và ngõa, bám hết lên những chân cột như thể thời gian bị cuốn trôi nhanh chóng.

Có thể vì tai nạn này hay vì một lý do nào khác mà miếu Cựu không có ngày khánh thành, đồng Tuất cũng không được công bố làm thủ nhang một cách danh chính ngôn thuận.

Người làng Di, làng Bùi và những làng lân cận thường nhìn lên ngọn đèn đỏ trên chỗ bàn cờ tiên nhân tạo và đoán định những đêm đồng Tuất giải nghiệp cơ đầy. Với người có công thì thế còn với kẻ tàn tật dưới chân núi Cựu thì ít ai màng tới. Chút đồ ăn bố thí cho kẻ tật nguyền này thường có món cá của đầm làng Bùi, gã cũng luôn biết cảm tạ người cho ăn nên mọi người cũng thương gã nhiều hơn. Với lại, gã tàn tật, chân thọt, tay khèo nên cũng chẳng lấy tiền thiên hạ bố thí bao giờ nên gã được thương cảm nhiều hơn. Gã hay ngồi tư lự ngóng lên đỉnh núi, nơi Miếu Cựu đẫm nắng mưa và Đồng Tuất vẫn cùng cánh lễ hầu bóng mỗi độ mùa Xuân và tạ lễ dịp cuối năm.

Miếu Cựu linh thiêng, khởi từ Đồng Tuất hay nhà khoa học tóc bạc, râu bạc, mắt sáng quắc hay từ thầy trò xem phong thủy bằng la bàn cổ mà Miếu Cựu trùng tu từ đâu thì người làng Di, người họ Đặng phất lên từ đấy.

Mộ bố chồng cũ của Tuất kết, được phù ngay đời giai cả và đích tôn nên con trai Đồng Tuất cũng có ghế, có tựa khi còn quá trẻ. Mặc dù họ Đặng thịnh vượng nhanh đập vào mắt người thường như thế nhưng Đồng Tuất vẫn vi vu với gió giời trên đỉnh Núi Cựu không màng. Đồng Tuất phụng sự Thánh Mẫu, ăn chay trường, mặc những sa đũi, lụa là và đương nhiên người như Đồng Tuất không đơn độc, trên núi thì có người qua lại, về làng hay đi đâu vẫn không thiếu người săn đón, thậm chí theo hầu. Nói thế chứ cửa nhà quan vẫn có lối của Đồng Tuất chẳng ai ngăn cấm được.

Làng Di mua đứt cái đầm trên địa bàn làng Bùi, trái tai nhưng sự thể lại đúng như thế. Các cụ cao niên làng Bùi câm lặng chứ đừng nói đến người làn Bùi hay cánh trai đinh ngo ngoe. Ngòi con Bút lấp, hai làng liền thổ, dấu chỉ chính là con đường trải nhựa thênh thang. Cây sữa xưa đã chết khô vì bấy nay nó bị sâu đục rỗng ruột mà không ai hay. Cây đa già được trồng thế chỗ ngay, lệch dăm thước để ngòi Con Bút nằm trọn ven về phía làng Di. Đa lộc, đa tài đây và đương nhiên là tay người họ Đặng trồng chứ không thể là người họ khác.

Cây thân lớn gặp đất tốt, lại tay người có nghề chăm sóc tốt nên qua 1 trận mưa là bén rễ, chẳng thấy dấu hiệu bị chột ngày nào. Cũng từ khi có đường Con Bút thì gã tàn tật lại hay lết về gốc đa ngồi. Có lẽ gã thích chỗ này hơn vì là đường mới về làng rất đông người qua lại, xe máy phóng vè vè. Gã chỉ xin ăn, không xin tiền nong gì nên chưa bao giờ người làng Di, làng Bùi khó chịu về gã.

Khách thập phương kéo về Núi Cựu ùn ùn. Danh thắng Núi Cựu có khách suốt 4 mùa. Những nắng mưa làm cho rêu trên nóc miếu thẫm lại, có những buổi đẹp giời gã tàn tật lại nhúc nhắc đến tam quan ngóng lên đỉnh núi. Người ta kiệu, lọng quan thầy, quan bà lên núi chứ ai mang vác gã tàn tật này lên làm gì. Hình như gã khao khát có ngày sẽ lên được trên đó thì phải nên cứ ngóng lên miếu là nước mắt gã lại lăn dài. Gã tha thiết với ước nguyện hay có điều gì khó nói. Có người để ý bảo, sức gã còn lên được đỉnh núi Cựu lễ Mẫu, nhưng cơn cớ gì mà gã không lên, cứ ngồi dưới hóng và khóc hẳn là có nguyên do. Người lại bảo gã có căn mà chưa đến duyên. Người sỗ mồm thì bảo: Gã phải lòng Đồng Tuất thì có, không bỗng dưng 28 Tết năm đó lại còn bôi bôi, phết phết trên tam quan. Nguyên quán gã từ đâu không ai hay, sao Đồng Tuất lại mượn gã về sát Tết như thế, việc không quan trọng, Giêng, Hai làm thì có làm sao, đằng này… Ai biết được ma ăn cỗ…

Gã đã điếc lại ngọng thì làm sao nói lại được miệng lưỡi thiên hạ nên chỉ biết cúi đầu nhận bố thí mà đi nốt chặng ăn mày cửa miếu này mà thôi.

Họ Đặng giàu sang, danh tiếng vang khắp nẻo. Đồng Tuất và gã tàn tật kia vẫn chỉ một niềm gắn kết với núi Cựu. Duyên nghiệp gì đây?

Đồng Tuất hầu giá mùa xuân, người làng Di, làng Bùi và khách xa gần vây chật cứng cửa điện. Nghi lễ tiền tỷ xa hoa phải biết, người làng đến vì bị cuốn hút vào việc xin lộc, khách về dự có căn hay không khó xác định nhưng cũng là một cách tiếp cận người nhà quan, xưa nay vẫn thế.

Đồng Tuất trải hồn theo tiếng hát cung văn, dường như nhân gian không có đói nghèo, con đường nào cũng bằng phẳng như ngòi Con Bút, nếu có lên non thì cũng thềm bậc như lối lên miếu núi Cựu.

Đồng Tuất chững lại, cung văn nhìn trộm đồng rồi dạo đàn lấn lướt. Đồng Tuất vung tiền mau như thể lấp liếm, chuộc tội và sám hối không biết. Dâu cũ họ Đặng ban phát hào phóng cho bách gia hay trả nghiệp cho mình không biết. Chỉ thấy cung văn đàn hát rất hăng, còn cánh tham dự dán mắt vào toàn thân Đồng Tuất, mặt thì hơn hớn sẵn sàng khen nịnh.

Gã tàn tật co rúm dưới tam quan. Gã đang chịu đựng nỗi đau thân xác. Đau lắm! vật vã như bị giời đánh, người hành tới tấp, gã ôm tim, ôm đầu thở dốc khó nhọc. Nỗi đau trần gian hay truyền lên từ đất, truyền xuống từ giời dồn vào gã đây. Thật không công bằng khi bắt tấm thân gã đã tàn phế giờ lại phải chịu nghiệp này.

Người họ Đặng thành danh, cửa nhà quan thêm lần cơi nới, danh lợi khó có kẻ so bì. Dân hai làng Di và làng Bùi cũng luôn nhắc có công và có nghiệp của Đồng Tuất.

Đêm trăng suông, gió thốc trên đỉnh núi Cựu, Đồng Tuất một mình vì mấy người giúp việc xuống làng cả. Đồng Tuất nghe lòng mình khóc, con của Mẫu thường tủi thân, lúc nào cũng chỉ mong được an ủi vỗ về, được khen, được nịnh mà giờ đây chỉ nghe thấy mỗi hơi thở của mình. Ai đó khóc cùng đồng Tuất được?

Gió đầy đỉnh núi mà Đồng Tuất cô đơn như vầng trăng.

Gã tàn tật đã bò lên đến sân miếu. Như kẻ tội đồ gã dập đầu lễ Mẫu dưới gốc cây hoa đại. Tuất bối rối vì chỉ có một mình, vẫn là chỉ Tuất với gã. Trong ánh trăng sáng, Tuất thấy gã khóc, bất lực, kiệt quệ sinh khí, nhưng ánh mắt rõ là cầu cứu Tuất.

Ở đây chỉ có Tuất và gã, gã sống hay chết cũng đều liên lụy tới Tuất. Một người vô gia cư, không manh nha lai lịch, quê quán sao gã lại đến đây, bám riệt lấy Tuất và người làng Di, làng Bùi thế này, hẳn là có duyên nghiệp.

Gã chỉ tay vào trong miếu. Không, không thể, gã không được lết tấm thân bẩn thỉu vào đó. Gã là con chó dân làng nuôi bằng cơm thừa canh cặn cơ mà.

Tuất trấn tĩnh không để mình thét lên, sợ rằng âm thanh sẽ vọng khắp núi.

Gã nhìn Tuất, rõ là có điều muốn nói. Gã thọc tay vào túi áo ngực thật khó khăn. Tuất thây kệ, ai mà động vào người gã, ngộ nhỡ có người nhìn thấy, hay gã chết ngất trong tay Tuất thì sao, tình ngay lý gian, biết giải thích thế nào. Tuất cầu cứu Mẫu. Tuất bỏ mặc gã vào mở tung cửa miếu, cửa điện và thắp hương. Tuất cũng không thể bỏ mặc gã ở đó được, lương tâm con người, lương tâm con Mẫu không cho phép Tuất làm thế. Gã cũng đã từng đóng góp công sức xây miếu, Tuất càng không thể bỏ mặc gã được.

Tuất sợ. Hình như mạng sống của gã đang phụ thuộc vầng trăng. Rất có thể trăng khuất là gã sẽ chết. Trước và sau cái chết của gã sẽ ra sao? Lời đồn thổi, suy diễn không làm Tuất chết ngay nhưng liệu Tuất có còn yên thân, thoát khỏi nghi hoặc khi phụng sự thánh Mẫu.

Gã tàn tật để tay vào túi áo ngực, bàn tay co quắp kia muốn xé toang lồng ngực hay sao? Thề có cha trời mẹ đất, có Mẫu mẹ và các quan các ngài, các cô, các cậu, Đồng Tuất không tư tình gì với gã. Chỉ là có người bảo phải phết hồ loãng lên mái và đỉnh miếu đón mưa phùn năm ấy thì rêu phủ mới đẹp và ngôi miếu nhanh chóng trở nên cổ kính. Ngày 28 Tết ai cũng lo tết nhất nhà mình, chỉ có gã từ xa đến nhận làm việc đó, công sá tùy tâm, thế nên mới ra sự này.

Cái chết đang lan đến gần trái tim gã. Gã không vật lộn với nó, gã muốn gì thì lại không thể thốt ra lời. Lại một bí ẩn đem theo khi hồn này lìa khỏi xác ư? Tuất chợt nghĩ, con Mẫu thường đớn đau và nhạy cảm khó ai bằng.

Tuất đi vòng quanh gã. Thận trọng xem cái chết đang diễn ra dưới ánh trăng, tận mắt chứng kiến hồn lìa khỏi xác của kẻ bất hạnh này như định mệnh phải gặp. Cả Tuất và gã cùng đang bất lực trước số phận nên Tuất càng không thể bỏ mặc gã, không thể lấy lý do xuống núi gọi người để mặc gã từ giã cõi đời trong cô độc được.

Rất tự nhiên, theo cách của con người, của con nhà Thánh Mẫu, của người phụ nữ đã từng làm mẹ, Tuất đặt tay lên bàn tay co quắp kia. Bàn tay lạnh, di chuyển như trái tim hấp hối về phía trái tim, về phía túi áo ngực của gã. Có một vật cứng nhỏ bé đang đập cùng trái tim yếu ớt. Đôi mắt gã cầu cứu, mong Tuất hiểu phút sinh tử biệt ly này. Tuất đặt tay còn lại lên người gã, những phút giây hiếm hoi dưới ánh trăng này khó mà định hình được gã đã từng là người lương thiện hay kẻ độc ác nơi trần gian. Nhưng dẫu sao, gã đã đến đây, chết trong tay Tuất, Tuất phải có trách nhiệm với sinh mệnh này, cho dẫu người đời có bàn tán thế nào đi chăng nữa.

Tuất đưa cả hai tay tìm lấy vật cứng mà bàn tay tật nguyền kia cố tình đẩy tay Tuất vào điểm đó, là định mệnh, là duyên nghiệp hay sự trao gửi tin cậy đến rợn người không biết.

Tuất lấy nó ra khỏi túi áo ngực gã tàn tật. Tuất nhìn vào đôi mắt gã. Gã đã chết. Chết dưới ánh trăng, chẳng vướng bận gì nữa, vật nhỏ, gói trong vuông vải đỏ kia đã nằm gọn trong tay Tuất, thẫm ánh trăng và chặng cuối linh hồn gã.

Gió mạnh xôn xao, Tuất linh cảm linh hồn gã thiện lương. Trước cái chết của người lạ mà lòng Tuất bình tĩnh đến lạ lùng. Trăng đúng đỉnh đầu, tiếng côn trùng rộn ràng vô tri chứ không ai oán.

Đồng Tuất sẽ xuống núi báo tin cho người làng Di, làng Bùi, cho người họ Đặng. Báo cho nhà người ta vì người này có liên quan đến việc xây cất miếu và cũng để họ ra tay giải quyết khi có dị nghị về cái chết của người này.

Nhưng trước hết Tuất phải xem trong vuông vải đỏ kia là cái gì, công tư ra sao đã. Tuất chưa muốn đắp chiếu cho gã, ít ra Tuất cũng muốn linh hồn gã, thân xác phàm trần của gã cùng chứng kiến sự công tâm, không mưu lợi của Tuất. Nếu có là vàng Tuất cũng không màng.

Tuất thận trọng mở từng lớp vải lấn, tấm vải đỏ còn khá mới, có lẽ gã tàn tật đã lấn thêm vào. Bên trong là một lớp vải đã ngả màu và cuối cùng vật đó cũng hiện ra trong ánh trăng, trước con mắt của một người sống và trước đôi mắt nhắm nghiền của người đã chết.

Đó là một chiếc răng nanh.

Tuất rùng mình. Vật thiêng. Miếu cổ. Bị đánh cắp? Báo ứng? Lộ thiên cơ…Ý nghĩ ấy ập đến cùng lúc lộn xộn nhưng đủ để Tuất hiểu ra.Tuất lao vào trong miếu, có ánh sáng xanh chỉ lối, có đốm sáng thần thánh mách bảo, có một chỗ sáng bừng đủ để đặt vật đó vào. Ánh sáng tắt ngấm ngay khi đôi bàn tay Tuất đặt vật đó xuống. Không để lại một dấu vết nhỏ, như thể vật đó đã tan vào bóng đêm, đã được lòng đất mở ra, vùi sâu.

Tuất trở ra trong ánh sáng của vầng trăng bát bát, trong miên man suy nghĩ của kẻ vừa mới nhập hồn mình trở lại thân xác. Gã đã biết, đã mang trong người, đã cấm khẩu, kiệt quệ sinh lực rồi chết. Gã đã không hoàn trả được vật thiêng, phải nhờ đến duyên nghiệp của Tuất. Và Tuất đã hoàn thành việc đó dưới sự chỉ dẫn đầy mãnh lực.

Ánh trăng điền hoàn khắp Núi Cựu bằng màu vàng và cả những loài dạ hương.

Tuất lấy chiếu đắp cho gã, cắm vào chỗ chiếu nơi đầu gã 3 nén hương xin từ ban thờ Mẫu cho gã ấm lòng, linh hồn cũng đỡ tủi.

Tuất xuống núi trong đêm, để báo ngay cho người làng về cái chết của gã tàn tật. Làng sẽ lo chu tất thôi, nghĩa tử là nghĩa tận, người làng vốn có tình từ xưa đến nay, nên chuyện này không đáng ngại. Tuất không đi đường bậc mà lại lần theo triền núi thoai thoải. Ánh trăng và hương hoa cùng thơm mà vai Tuất càng đi càng nặng trĩu. Như thể Tuất phải mang vác những oan nghiệt xa gần. Tuất khấn xin mẫu và Sơn thần cùng các quan thần linh thương kẻ tôi đòi đang nương nhờ cửa miếu.

Sớm hôm ấy, nhằm ngày mùng, làng Di và làng Bùi có 2 cái tang. Gã tàn tật chết trên sân miếu núi Cựu, đồng Tuất lại chết dưới chân núi Cựu. Gã tàn tật chết được đắp chiếu lại có 3 chân hương cắm trên đầu nên mọi người đều hiểu gã đã chết trước, đồng Tuất xuống núi báo cho người làng thì đi sau. Họ đi vào giờ nào cũng khó đoán định, chỉ biết gương mặt họ thanh thản như đang ngủ. Gã tàn tật thì người đã thẳng thớm, không co quắp như lúc sống.

Ngôi miếu trên đỉnh núi Cựu sau mấy mùa rêu đã phủ kín. Người hai làng tin rằng họ Đặng làng Di phất là do đã đến hồi được báo ứng mà đồng Tuất là cầu nối đón nhận sang tai, lai lời. Đồng Tuất chết cũng vì sự ấy.

Nhưng người 2 làng và bách gia không ai biết rằng, người làng Di cụ thể là người họ Đặng quyết xây miếu, xới tung đỉnh Núi Cựu lên để tìm cho bằng được vật thiêng và cánh quân quyền tay chân kia dịch ra rằng: Đó là căn nguyên sinh khí, hiện hữu lời nguyền.

Người họ Đặng phất quả không sai. Núi Cựu cháy vạt đồi cỏ tranh và cây đại già chết cũng không hề hấn gì đến sự hưng vượng của người họ Đặng. Cây đại già khác lại được đánh về trồng đúng chỗ ấy, ngay mùa Xuân năm đó. Lảng bảng những lời thương cảm dành cho Đồng Tuất khi người nhà họ Đặng cùng khách hạng sang về miếu dâng lễ.

Người họ Đặng trân trân trước thời cuộc. Ai cũng nhìn thấy họ tự tin khi sở hữu vật thiêng. Họ là người làng Di, đã cất công kiếm tìm và thực sự họ đã được chọn mặt gửi vàng. Là người họ Đặng làng Di, chứ không phải người làng Bùi hay một ai đó của dòng họ xa gần nào trong bách gia trăm họ.

Họ tin vào đám người thân tín, tin vào thần linh, tin cả việc Đồng Tuất đến làm dâu họ Đặng rồi bước khỏi cửa nhà quan về bên cửa Mẫu. Nhưng thực sự họ đã không hề biết rằng, sự linh thiêng đã chuyển sang vật phẩm khác thấm hồn người sống, người chết, người hạnh phúc, kẻ oan khiên. Vật thiêng ấy lại ngự ở nơi phát quang thần linh lựa chọn và những người giữ bí mật này lại đã phiêu diêu miền cực lạc.

Bí mật của núi Cựu và ước vọng của người làng Di, người trong vùng đã phải tính lại, đúng từ đêm trăng sáng gã tàn tật và Đồng Tuất thăng.

Ước nguyện đã mất trắng cả chặng hành trình đằng đẵng là một nhẽ, nhẽ khác còn cay đắng hơn nhiều là kẻ nào khi chọn hiện vật thay thế không biết vô tâm hay dã tâm mà chọn cái răng nanh. Nên bách gia còn phải hứng đủ bản chất của bảo vật chặng khởi đầu. Răng nanh của loài cầm thú ăn thịt cũng sẽ khác sau những thấm nhuần, giác ngộ, tẩy rửa, sám hối vẫn có nhưng thậm là lâu. Thời gian cải hoàn để thanh sạch không thể tính bằng mùa mà vẫn phải tính theo cách truyền đời và lại bằn bặt những tưởng tượng, đón đợi và hy vọng.

Sau này, rồi cũng sẽ có ngày, có người am tường chỉ ra sự này. Nhưng là mãi sau này chứ giờ thì người làng Di, làng Bùi, người dưới chân núi Cựu và bách gia vẫn đang hừng hực tin rằng bí mật Cựu Sơn đã được giải mã, đã có hồi kết tưng bừng ở đời này, kiếp này. Có người mạnh mồm bảo được báo ứng nên đã biết thánh nhân với lai lịch và công trạng rõ ràng.

Ai cấm được người trong nhân gian khát thánh.

Thuận Giang đổ về biển, Cựu Sơn và ngôi miếu trùng tu, điện Mẫu xây mới đẫm khói hương và lời cung văn nuột nà dụ hị. Theo thời cuộc những canh hầu xa hoa hơn hẳn thời Đồng Tuất, mà người làng vẫn gọi là đồng sang, đồng có máu mặt.

Lời đám mõ có mùi rượu thịt, nhưng xem ra cay đắng, đắng cay cũng khiến không ít người chảy nước mắt…

 

Nguyễn Thị Minh Hoa

Đánh giá bài viết 1 Star2 Stars3 Stars4 Stars5 Stars (Chưa có đánh giá nào)
Loading...