CON ĐƯỜNG LÚA TRỔ – Truyện ngắn của Nguyễn Thị Ngọc Diễm

Buổi sáng quê tôi, nắng trải xuống con đường làng một màu vàng mật ngọt. Tôi trở về thăm ba mẹ, đi trên con đường quen thuộc mà bỗng thấy khác lạ. Hai bên đường, những bóng đèn led mới được mắc đều tăm tắp, ánh sáng trắng hẳn là đã làm sáng bừng cả những đêm quê. Con đường đất ngày nào nay đã được đổ bê tông chắc nịch, im ắng mà kiêu hãnh như một dải đá vững bền. Bờ ruộng xưa vốn chỉ có rau má mọc um tùm, nay người ta trồng đầy hoa hướng dương, hoa bươm bướm, sắc xanh đỏ tím vàng rực rỡ như dải gấm lụa. Mùi hương hoa quyện cùng hương lúa đang thì trổ đồng, ngào ngạt mà thân thương đến lạ. Tôi vẫn thích hít thật sâu cái mùi ấy trước khi vào nhà – thứ mùi đã theo tôi mấy mươi năm, như hơi thở của chính quê hương.

Nhìn xa xa bãi đất trống, đàn bò tròn trịa đang gặm cỏ non. Trong đó có một con bò đen mập mạp, lông bóng mượt, làm tôi bỗng nhớ đến Ben – con bò thân yêu gắn bó với gia đình tôi từ thuở mười tám…

Vào một buổi chiều cuối tháng bảy, mùa gió Nam quê tôi đã dứt hẳn, không còn ào ạt như đầu tháng nữa. Cả nhà đang quây quần bên mâm cơm ngoài sân, với cá trích nướng, mắm ngò, rau sống, canh cua nấu đu đủ. Khói nồi cơm bay nghi ngút. Em gái tôi vốn thích cơm cháy, nên cứ năn nỉ chị đảo cơm từ dưới lên để vớt cho bằng được lớp vàng giòn dưới đáy nồi. Em bưng bát cơm cháy mà ăn say sưa.

Bất ngờ, bác nhân viên xã ghé vào, đưa cho nhà tôi một bì thư. Mẹ lo lắng, giục tôi mở ngay. Cả nhà buông đũa, dõi mắt chờ đợi. Tôi run run bóc thư, mắt sáng bừng: Tôi đã đậu đại học! Tôi òa khóc, ôm chầm lấy ba mẹ. Em tôi chẳng hiểu chuyện gì, cũng nhào tới ôm tôi cười khúc khích.

Ba mỉm cười, mắt ánh lên niềm tự hào: “Con là đứa đầu tiên của xóm đi đại học đó nghen.” Rồi ba vội vã chạy vô thắp nhang cho ông nội.
Nhưng giữa niềm vui, tôi bắt gặp ánh mắt lo âu của mẹ. Mẹ vừa cười vừa vô thức vò tóc, vài sợi bung ra trong gió chiều. Thói quen ấy tôi biết – hễ mẹ lo nghĩ điều chi là lại vò tóc. Tôi bỗng nghẹn ngào, trong lòng vừa vui vừa chùng lại. Nhìn quanh mái nhà cũ, những viên ngói bạc màu, mùa mưa thì dột tứ tung… tôi tự hỏi: “Liệu giấc mơ của mình có thành gánh nặng cho ba mẹ không?” Niềm vui trong tôi thoáng chốc lẫn vào nỗi áy náy.

Tối ấy, khi tôi và em gái ra đầu xóm chơi, ba mẹ ngồi bên chiếc bàn gỗ xoan bạc phếch, thủ thỉ gì đó. Rồi ba vội vã lấy chiếc xe đạp không thắng, bóng dáng gầy còm khuất dần sau hàng tre. Khi trở về, mặt ba buồn hiu… Tôi nhìn mà lòng đau thắt, chỉ muốn chạy đến ôm ba, nhưng lại lặng im. Đêm đó, trên chiếc giường tre kẽo kẹt, tôi nghe mẹ hỏi nhỏ: “Ông có vay được tiền không?” Ba đáp khẽ: “Không… chú nó cũng đang cất nhà.” “Còn dì Sáu?” – “Dì cũng lo cưới vợ cho con trai.” Tiếng mẹ thở dài não nề. Tôi quay mặt vào vách, nuốt nước mắt, tim như có ai bóp chặt.

Rồi mẹ buông một câu chắc nịch: “Giờ chỉ còn cách bán con Ben, chứ biết sao”. Con gái mình nhất định phải học, để làm gương cho em nó, cho cả xóm.” Tôi nghe mà sững người, tim đau nhói. Ben là một phần ký ức tuổi thơ, là bạn thân thiết của cả nhà, thế mà giờ phải hy sinh vì tôi. Trong thoáng chốc, tôi vừa thương Ben, vừa thương ba mẹ, vừa tự trách mình.

Ba im lặng rất lâu, rồi chậm rãi gật đầu, giọng nghèn nghẹn: “Ừ… thôi bán đi. Nó đang chửa, thêm năm nữa có bê con, nhưng mình chờ sao kịp cho con nhập học?” Tôi nghe tiếng ba, như nghe tiếng rơi của cả tảng đá xuống lòng mình.

Đêm đó, ba trằn trọc, gần một giờ sáng ra chuồng thăm Ben. Nhưng cổng chuồng mở toang, dây buộc đứt, Ben biến mất. Cả nhà hốt hoảng, chia nhau đi tìm. Mẹ lạc vào cánh đồng mía rậm rạp, ba chạy ra bãi sông, còn tôi men theo cánh đồng lúa đang thơm mùi sữa, nghe tiếng ếch nhái, giật mình trước mấy bóng bù nhìn trắng toát trong sương đêm. Lần đầu tiên tôi đi đêm khuya như vậy, vừa sợ, vừa lo, vừa nghĩ: “Nếu mất Ben thật rồi, giấc mơ của mình chắc cũng tan biến.”

Chúng tôi tìm suốt bốn giờ mà chẳng thấy. Tôi mệt lả, nghĩ đến cảnh phải gác lại giấc mơ đại học, đi làm công nhân rồi lấy chồng như mấy bạn cùng xóm, nước mắt trào ra. Nhưng rồi, khi bước lên nghĩa trang làng, giữa sương mờ, tôi nghe tiếng thở phì phò quen thuộc. Vén bụi cỏ voi, thấy Ben đang nhai ngấu nghiến. Tôi òa lên vừa mừng vừa giận: “Mày hại cả nhà thức trắng đêm đó Ben à!” Nó cụp mắt xuống, rồi đưa mũi chạm vào bia mộ ông nội. Tôi sững người, nước mắt tuôn rơi. Phải chăng, ông cũng dõi theo để giữ cho giấc mơ của tôi? Tôi chắp tay vái ông nội và dắt Ben đi về.

Nhưng trưa hôm đó, người ta cũng đến dắt Ben đi. Ba vuốt ve nó, mắt rưng rưng, em gái tôi níu kéo khóc lóc. Tôi chạy đến ôm lấy cái bụng căng tròn của nó. Ben chần chừ, ghì chân xuống, đến khi ba dịu dàng vuốt mũi dỗ dành, nó mới chịu bước lên xe… Tôi quay đi, không dám nhìn thêm, vì mắt mình đã nhòe đi cả. Lòng tôi trĩu nặng, như thể chính mình đang phụ lại nó.

Ngày nhập học, tôi đến trường muộn hơn bạn bè vài hôm. Trên chuyến xe, tôi cứ nghĩ về Ben – ánh mắt nó nhìn tôi lần cuối như muốn nói bao điều. Tôi không dám tưởng tượng người ta đã làm gì nó… Chỉ biết rằng, chính nó đã góp phần mở cánh cửa đại học cho tôi. Trong tim tôi, Ben không chỉ là một con bò, mà là cả tấm lòng ba mẹ, là tình thương thầm lặng quê nghèo.

Và rồi, mỗi lần về lại quê, hương lúa trổ bông, con đường bê tông sáng trắng, ký ức về Ben lại dội về. Nó là một phần tuổi trẻ tôi, một phần máu thịt quê nhà – nhắc tôi rằng, sau mỗi bước đi xa, luôn có tình thương của ba mẹ, và cả những hy sinh thầm lặng nơi làng quê mộc mạc ấy.