BÌNH YÊN “CÒ VỀ NÚI NGỌC” – Tản văn Phạm Vân Anh

Là địa bàn biên giới nằm cách thành phố  Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang 90 km đường bộ, Hà Tiên được hình thành cách đây gần 300 năm mà tên tuổi của nó được gắn liền với dòng họ Mạc, những người có công khai phá xứ Hà Tiên. Thi sĩ Đông Hồ – một danh nhân của đất Hà Tiên đã ca ngợi quê hương mình bằng những lời văn rất đẹp: “Ở đó kỳ thú thay, như hầu đủ hết. Có một ít hang sâu, động hiểm của Lạng Sơn, có một ít ngọn đá chơi vơi giữa biển của Hạ Long. Có ít núi đá vôi của Ninh Bình, một ít thạch thất, sơ môn của Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít chùa chiềng của Bắc Ninh, lăng tẩm của Thuận Hoá. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng, có một ít Nha Trang, Long Hải”

Lịch sử ghi lại, vùng đất Mang Khảm hoang sơ xưa vốn thuộc quyền quản lý của một Hoa kiều là Mạc Cửu. Là người có tầm nhìn xa, ông cho mở mang việc buôn bán thông thương, xây dựng nhiều thương điếm để làm ăn với người nước ngoài và dùng tiền thuế thu được để chiêu mộ dân cư, khai hoang lập ấp. Ông đặt tên cho vùng đất trù phú này là Hà Tiên. Năm 1708, trước sự quấy phá của quân Xiêm, ông dâng biểu xin quy thuận nhà Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Chu vui lòng chấp thuận và phong cho ông chức Tổng Binh Hà Tiên để lo việc an ninh tại địa phương và còn phong cho ông tước hiệu là Cửu Ngọc Hầu. Kể từ ngày đó, Hà Tiên trở thành mảnh đất cuối cùng của đất Việt về hướng Tây Nam.

Được mệnh danh là một Việt Nam thu nhỏ bởi địa hình và các quần thể văn hóa mang vẻ đẹp của phương Nam nhưng hệ thống núi non, hang động thì lại có nét đặc thù của phương Bắc, Hà Tiên vang danh như chính tên gọi của mình. Có cái gì như hoang sơ, như thần thoại, cũng có cái gì như phồn hoa, cổ kính mà hiện đại. Hà Tiên đẹp, một nét đẹp đã tạc ngay từ cái tên, vừa quen, vừa lạ, vừa thơ, vừa thực. Và độc đáo hơn là giữa vùng đồng bằng Nam bộ bằng phẳng, đâu đâu cũng vẻ đẹp tương tự như nhau bởi kênh rạch, miệt vườn cây trái, phù sa tươi tốt thì Hà Tiên lại nổi bật lên vẻ đẹp rất riêng của núi cùng nét hoang sơ của những tạo tác mà thiên nhiên đã ban tặng đã mang lại cho mảnh đất này một sự quyến rũ kỳ lạ.

Đã đến Hà Tiên không thể nào không ghé thăm Trung Nghĩa Từ, vốn là từ đường của dòng họ Mạc được Tổng binh Mạc Cửu – người được nhà Nguyễn phong tặng tước hiệu Khai trấn Thượng trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị công cho xây dựng trước khi ông mất. Khu từ đường này được làm bằng gỗ, trần thấp lợp ngói âm dương và được dựng dưới chân núi Bình San, ngọn núi cao chưa đầy 200m nhưng cảnh vật hài hòa, cây cối bốn mùa xanh tốt. Kiến trúc khu từ đường đa phần tương đồng với kiến trúc chùa chiền của người Việt song cách bài trí cảnh vật cũng ảnh hưởng nhiều đường nét của Trung Hoa. Ngay phía cổng tam quan là đôi câu đối tương truyền do chúa Nguyễn Phúc ánh ban khen, được dịch nghĩa là: “Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ, Bảy lá giậu che, cả nước mến yêu”.

Đền thờ Mạc Cửu (Ảnh: internet)

          Nhắc đến Hà Tiên, sẽ là thật thiếu sót nếu không nhắc đến những hang động nổi tiếng đã đi vào truyền thuyết và được ngợi ca là “Thạch động thôn vân” – nghĩa là động đá nuốt mây, một trong mười cảnh tuyệt đẹp của trấn Hà Tiên xưa. Thạch Động cách thị trấn Hà Tiên khoảng 4km về phía Bắc, sừng sững như đội đất mà lên giữa cánh đồng lúa của xã Mỹ Đức. Trong lòng động có nhiều hang ăn thông ra bốn hướng Đông, Tây, Nam , Bắc và hướng lên trời hoặc ăn sâu xuống. Sự kết cấu kì lạ của khối núi đá vôi đã tạo ra một lòng hang đủ rộng để có thể xây dựng được một ngôi chùa nhỏ cho du khách đến chiêm bái.

Chẳng biết tự bao giờ mà người dân Hà Tiên tự hào rằng Thạch động chính là nơi khởi nguồn của câu chuyện cổ tích Thạch Sanh chém chằn tinh cứu công chúa thấm sâu trong ký ức tuổi thơ. Vào sâu trong Thạch Động, thạch nhũ lâu ngày đã tạo những hình thù lạ mắt mà trí tưởng tượng của mỗi người sẽ có dịp biến chúng thành chàng Thạch Sanh dũng mãnh, con chằn tinh hung ác và nàng công chúa tóc dài…. Những khối đá chênh vênh nằm đè lên nhau tưởng chỉ một cơn gió nhẹ cũng có thể xô đổ vậy mà hàng trăm năm qua, Thạch động vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt và mãi đẹp như câu thơ của Mạc Thiên Tích: “Xanh xanh ngọn đá chạm thiên hà. Động bích long lanh ngọc chói loà… Chót vót tinh hoa đây có hẳn,Theo chiều gió lộng vút cao xa.”

Cách Thạch Động 1km về phía Đông là núi Đá Dựng có độ cao gần 100m, nằm chơ vơ giữa đồng, vách đá dựng đứng. Núi Đá Dựng còn có một tên gọi khác trong “Hà Tiên Thập cảnh khúc vịnh” là Châu Nham. Nhưng tên cổ của núi là Bạch Tháp, được sử gia triều Nguyễn là Trịnh Hoài Đức chép trong “Gia Định Thành Thông Chí” ở mục Sơn Xuyên Chí (nghĩa là chép về núi sông ) rằng: “Núi Bạch Tháp ở phía Bắc núi Vân Sơn năm dặm, sông núi quanh co, cỏ cây rậm rạp… Hàng năm cứ đến ngày Tam Nguyên và Phật đản thì chim hạc đến múa, vượn xanh dâng quả, lưu luyến bồi hồi như có  tham thiền nghe kệ, có thể gọi là cảnh chùa tiêu sái.”

Nhìn từ xa, ngọn núi này có có hình thang cân, độ cao gần 100m nằm giữa cánh đồng rộng lớn. Ngay phía bên kia vách núi Đá Dựng đã đường biên giới phân cách giữa Việt Nam và nước bạn Campuchia. Theo các nhà địa chất học và khảo cổ học thì rất có thể trước đây, Đá Dựng vốn là một vùng đầm trũng, là nơi sinh tồn của các loại thuỷ cầm như le le, vịt nước hoặc các loại chim di cư từ phía Nam lên. Trải qua ngàn năm kiến tạo địa hình, vùng đầm xưa đã vượt lên và trở thành một quần thể núi đá vôi với hệ thống hàng chục hang động lớn nhỏ ẩn sâu trong lòng núi. Các hang động này ăn thông với nhau và tạo nên một tuyến đường thông suốt từ chân núi tới đỉnh núi dài trên 3.149 m.

Được biết, núi Đá Dựng Khi Mạc Cửu đến khai mở đất Hà Tiên vào cuối thế kỷ XVII, thấy người dân thường nhặt được ngọc quý tại Đá Dựng và trong lòng núi có thạch nhũ tinh quang lấp lánh như kim cương, toả muôn hồng nghìn tía như châu ngọc nên ông gọi là núi Châu Nham, nghĩa là “núi ngọc”. Dân gian còn truyền lại rằng, thuở đất Hà Tiên còn hoang sơ, cư dân Phù Nam đã từng tập trung ở đây. Quân Xiêm và Chân Lạp thường sang đánh phá, cướp bóc, nên nhiều người đem ngọc ngà, châu báu chôn giấu trong các hang động quanh vùng núi Đá Dựng. Cảm khái trước một vùng non nước thanh bình, thịnh trị, Mạc Thiên Tích – con trai Mạc Cửu, người sáng lập ra Tao Đàn Chiêu Anh Các đã làm mười bài thơ ngâm vịnh miêu tả mười cảnh đẹp của đất Hà Tiên xưa. Trong đó có vài vịnh núi Đá Dựng nhan đề “Châu Nham lạc lộ” miêu tả cảnh đàn cò trắng bay về núi ngọc để trú ẩn, nghỉ ngơi. Chỉ bốn chữ “Châu Nham lạc lộ” mà quán xuyến hết nhẽ về một cảnh đẹp thanh bình hiếm thấy, gợi lên bức tranh yên ả về một vùng biên cương xa ngái: “Bóng ngọc mây đâm phủ núi non/Bay la bay lả trắng hoàng hôn/ Góc trời thế trận giăng cây cỏ/ Đóa ngọc hoa rơi khắp bãi cồn.”

Đi qua hai tuyến hang động chính, mới thấy Đá Dựng như một tòa lâu đài đá vĩ đại, kiên cố với hàng trăm vọng pháo đài, hàng ngàn gác chuông thiên tạo mang những cái tên lưu truyền qua nhiều thế hệ như hang Mẹ Sanh, hang Biệt Động, hang Chỉ Huy, hang Thác Bạc, hang Cổng Trời, hang Bồng Lai… Mỗi hang lại có vẻ đẹp riêng và rất huyền bí, bởi thạch nhũ trong các hang có những hình thù khác nhau: thạch nhũ hình bình hồ lô; khối đá xanh hình con rùa; thạch nhũ có hình như trái khổ qua. Dân gian còn kể, hang Cội Đa Già chính là nơi sinh sống xưa kia của Thạch Sanh. Từ vòm hang này, chàng đã giương cung bắn trọng thương chim đại bàng khi chim đang cắp công chúa bay ngang qua núi Đá Dựng.

Một trong những chiến công mà người dân Hà Tiên luôn ghi nhớ là cũng tại các lòng hang rộng lớn này, Đảng bộ và quân dân Hà Tiên đã dùng nơi đây làm căn cứ cách mạng trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tháng 5 năm 1970, trước sự bố ráp điên cuồng của nguỵ quyền Sài Gòn, các chiến sỹ của ta chưa đến 100 người đã cố thủ trong lòng hang, chiến đấu với địch trong suốt 27 ngày ròng rã để giữ vững căn cứ, buộc địch phải rút lui. 21 người đã hi sinh, nhiều người mang trong mình thương tật…, nhưng Đá Dựng đã đi vào lịch sử đấu tranh của Đảng bộ và quân dân Hà Tiên như một truyền thống hào hùng. Năm 2004, ngọn núi này được xếp hạng là di tích lịch sử, danh thắng cấp quốc gia.

Mang trong mình bao huyền tích về một thời mở cõi và bảo vệ, giữ gìn Tổ quốc, đỉnh Châu Nham vẫn ngày ngày vẫy gọi từng đàn chim về xây tổ. Những trảng lúa gối nhau dần chuyển từ xanh sang vàng nhẹ, rồi ửng đậm từ triền Đông sang triền Tây. Trên những cánh đồng ấy, những người dân của hai đất nước vẫn miệt mài gặt lúa chiêm chín sớm. Chao liệng trên ngọn sóng vàng ấy, cò trắng đang về. Từng đàn, từng đàn…

Đánh giá bài viết 1 Star (1 lượt bình chọn)
Loading...