BẠN BỐ KỂ CHUYỆN CHIẾN TRƯỜNG – Truyện ngắn của  Nguyễn Hội

Bố tôi mất, nhà chỉ còn mình mẹ. Tôi về quê ba tuần, trở lại thành phố một tuần sắp xếp việc gia đình rồi lại về quê với mẹ. Vừa về đến nhà hôm trước, hôm sau mẹ tôi bảo: “Hôm nọ, con đi buổi sáng thì buổi chiều có hai bác bạn chiến đấu đến thắp hương cho bố. Họ ở xa nên hôm ấy mới biết. Con tranh thủ lúc nào chở mẹ đi thăm lại hai bác, ngộ nhỡ sau này họ có “việc này việc kia” mình không đến được với người ta thì mang nợ suốt đời”.

 

Tôi hơi ngại đường xa, ngại đi tìm địa chỉ. Vả lại hình ảnh về hai người bạn của bố khá mơ hồ, chủ yếu thông qua những câu chuyện kể từ khi tôi còn rất nhỏ nên bàn lùi, nói, thôi cứ để từ từ con tính.

 

Sáng sớm tinh mơ hôm sau chị cả tôi nhắn tin: “Ăn sáng xong, cậu ra tôi ngay có chút việc”.

 

Tôi chột dạ, không biết có việc hệ trọng gì. Thường ít khi chị tôi nhắn như này.

 

Chưa kịp để thằng em đưa chén nước lên uống, chị tôi bảo luôn: “Cậu phải đưa mẹ đi thăm hai bác bạn với bố. Cả đêm qua mẹ cứ trằn trọc mãi không ngủ được, vì cậu không chịu chở mẹ đi đấy”. Nhà ở gần, từ ngày bố tôi mất, tối nào chị cũng vào ngủ chung. Hai mẹ con thủ thỉ với nhau nên chị biết những tâm sự của mẹ.

 

Tôi giật mình. Cảm giác như một ngày nào còn bé nhỏ mắc lỗi không nghe lời mẹ, chợt ùa về. Lần ấy tôi trốn học bỏ đi chơi bị bố đánh đòn, còn mẹ chỉ giận chứ chẳng nói một lời. Rồi mẹ nhịn cơm cho đến khi tôi chịu cúi đầu nhận lỗi. Thì ra sự việc không đơn giản như mình nghĩ. Với mẹ, đây là một việc quan trọng.

 

Tôi chạy ngay về nhà. Nghe tôi nói xong, những nếp nhăn nheo trên mặt mẹ đột nhiên giãn hẳn ra. Mẹ bảo: “Việc lễ nghĩa ở đời con ạ! Người ta là bạn chiến trường với bố con. Hai ông già lọm khọm đèo nhau bằng cái xe máy lọc cọc hàng chục cây số đến tận đây. Cái ông cầm lái, tay còn run run, chạy xe lập cà lập cập. Mẹ không đi đáp lễ người ta là không được. Vả lại, mẹ cũng đang còn có chuyện muốn nghe hai bác kể”.

 

Tôi tìm cách liên hệ để định hình chuyến đi và hỏi thăm đường. Cũng may, năm trước các bác đến nhà tôi chơi và anh trai tôi kịp xin số điện thoại. Nhưng cả một ngày, tôi gọi nhiều lần mà không ai bốc máy. Nghĩ những người già thường nặng tai, điện thoại lại chả mấy khi để gần nên tôi kiên trì chờ đợi. May sao đến bữa cơm trưa hôm sau, một trong hai bác, là bác Học mới nghe máy.

 

Hơn hai giờ chiều, cái nắng những ngày đầu mùa Thu vẫn còn khá gay gắt, tôi chở mẹ đi bằng xe máy. Con đường từ nhà sang Tiên Hưng tôi ít có dịp đi nhưng lại gắn bó với mẹ biết bao nhiêu mùa ổi, mùa dưa. Nhà tôi có nghề trồng các loại rau củ quả để mẹ đi chợ bán. Mẹ bảo, hồi xưa chịu khó đạp xe sang bên đây, tuy xa nhưng bán nhanh và được giá, nếu hàng của mình thực sự ngon. Dân phố họ sành ăn mà.

 

Nhờ có điện thoại công nghệ nên chỉ cần thêm một lần hỏi thăm là mẹ con tôi đến ngay cổng nhà bác Học. Nhà bác ở xã Thăng Long, qua thị trấn Tiên Hưng (cũ) vài ki-lô-mét. Hồi trước tôi đã đi cùng bố đến nhà bác chơi, nhưng lâu ngày, mà còn nhỏ nên cũng chẳng nhớ đường. Nhìn cây lựu với những bông hoa đỏ tươi như màu cờ Tổ quốc nở tràn từ trong sân ra ngoài ngõ, tôi nhận ra chính xác ngôi nhà như lời bác mô tả trên điện thoại.

 

Bác Học năm nay bảy mươi chín tuổi, người tầm thước, đôi chân mày rậm dài như sâu róm, có mấy sợi cong vút hẳn lên như cánh đao đình. Chậm rãi rót chén nước chè tươi cho mẹ con tôi, rồi cũng chậm rãi lấy khăn chấm từng giọt nước rịn ra từ khoé mắt hấp háy, bác kể: “Trước khi đi B, tao với bố mày được cho về nhà nghỉ phép một tuần. Từ Kim Bôi, Hoà Bình về Phủ Lý hai thằng đi nhờ xe chở thóc, từ Phủ Lý về đến Nam Định nhảy tàu, còn lại đi bộ. Đường xa nhưng chân cứ như hai con nghé tơ nên đi liền một mạch. Về mất hai ngày, đi sớm một ngày nên mất ba ngày, vỏn vẹn chỉ được ba ngày ở nhà, nhưng vui thì phải biết. Tối nào cũng đông nghịt người đến chơi như nhà có đám. Có lẽ vì thế nên mẹ tao đâm hoảng, trước khi lên đường, bà bắt tao ngồi trước hiên. Mẹ tao bảo, con ngồi đây cho mẹ ngắm con thật kĩ rồi hãy đi, biết đâu khi con về mẹ lại chẳng còn nữa. Tao sợ quá, phủ phục xuống đất lạy mẹ như tế sao rồi khoác ba lô đi thẳng. Chẳng ngờ khi tao về, mẹ tao vẫn khoẻ mạnh, còn bố tao do vết thương chống Pháp tái phát thì lại mất”.

 

Thấy tôi chăm chú, bác kể tiếp: “Bố mày đánh nhau cừ ra phết. Cao, gầy nhom nhom nhưng luồn nhanh thì phải biết. Xạ thủ B41 nhưng khi vào trận chỉ mặc mỗi cái quần đùi áo lót với cái bao xe đựng đạn. Cũng một lần bắn cháy xe tăng, một lần xe bọc thép nhưng chả lần nào người tận mắt chứng kiến còn sống nên không được cái “Dũng sĩ diệt Mĩ”. Riêng tài bắt tôm bắt cá của bố mày thì tao phục sát đất. Hồi ở Tây Ninh, chiều tao với bố mày ra sông Vàm Cỏ Đông tắm, thấy tôm cắn rặm cả chân. Thế là hai thằng về lấy màn ra làm lưới, kéo một loáng đã đầy cái rổ sề, cả bếp ăn không hết”.

 

Khi mẹ con tôi chuẩn bị xin phép ra về, bác Học bảo chờ bác một tí. Rồi bác bấm máy gọi cậu con út đang đi làm ở đâu đó. Bác bảo: “Mẹ con bà còn phải sang bên ông Đấu thì tôi không dám giữ ở lại ăn cơm, nhưng cũng phải chờ thằng út về để anh em nó biết mày biết mặt”.

 

Mẹ tôi không nói gì, đưa mắt nhìn sang tôi như có ý tùy con quyết định: Đường thì xa mà còn một nhà nữa chưa đến được đấy. Tôi nói vâng, bác cho cháu hỏi thăm đường. Bác bảo: “Cứ thẳng đường này mà đi, rẽ trái qua cái cổng đền có gốc đa thật to, rồi lại cứ thẳng đường đến cầu Rều, vừa qua cầu Rều thì rẽ trái ngay, đi vài trăm mét nữa hỏi thăm nhà ông Đấu thương binh, ai cũng biết. Nhà ông ấy rẽ phải vào một cái ngõ nhỏ nhưng dài ngoằng ngoẵng, đi qua những ba bốn cái cổng. Nhưng mà thôi, mẹ con bà cứ uống nước đi, chờ thằng cu cháu nó về cái đã”. Tôi nghe bác mô tả đường đi mà càng thêm sốt ruột, nhưng chả còn cách nào khác đành ngồi tiếp thêm với bác vài câu chuyện.

 

Một lúc lâu sau, cậu con trai út của bác đang đi làm ở xưởng cơ khí gần đó về tới. Bác bảo: “Con uống chén nước đi rồi chở bố đi cùng hai mẹ con bà đây sang bên cầu Rều”. Vừa nghe bác nói hết câu, mẹ con tôi bỗng nhìn nhau mừng rỡ, vậy là không phải hỏi thăm đường.

 

Khác hẳn với những câu chuyện lúc ở nhà, bác Học ngồi riêng với mẹ con tôi. Khi hai bác ngồi cùng nhau, trở về là hai người bạn lính, câu chuyện của những người cựu chiến binh sáu mươi năm trước được kể lại rất rôm rả.

 

Cuối năm sáu nhăm, bố tôi và hai bác cùng đi thanh niên xung phong, đơn vị đóng quân ở Thanh Hoá. Nhiệm vụ chủ yếu của Đội Thanh niên xung phong “xê 873” là đảm bảo an toàn cho các tuyến đường vận tải vào Nam. Đến tháng bảy năm sáu bảy, bố tôi và bác Học nhập ngũ vào Sư đoàn 320, lên Hoà Bình huấn luyện rồi đi B (sau đó năm tháng) chiến đấu trong đội hình Sư đoàn 9, Quân đoàn 4. Bác Đấu còn ở lại thanh niên xung phong thêm một thời gian nữa mới chuyển “sang” bộ đội.

 

Bác Học kể: “Tao với bố mày ở cùng đơn vị từ đầu đến cuối. Năm sáu tám, đánh nhau ở Tây Ninh mấy trận, bố mày bị thương, cũng khá ra phết đấy, nhưng rồi trở lại đánh đấm như thường. Sau cái lần hai thằng đi kéo màn tôm, đánh thêm trận công đồn ở Châu Thành, tao bị thương nằm nhà. Bố mày cùng anh em đi trồng sắn tàu, trong đó du kích họ gọi là khoai mì. Tao tưởng đen mà lại hoá ra đỏ mày ạ”.

 

Thấy tôi ớ người ra, bác kể tiếp: “Mày bảo, tao đang nằm võng tòng teng nghe đài giải phóng bỗng bị hai thằng mặc đồ rằn ri bất ngờ xuất hiện. Chúng gí súng vào đầu. Lúc ấy trong lán chỉ còn có mình tao. Chúng hỏi mấy câu nhưng tao cứ ú a ú ớ chứ có kịp phản ứng gì đâu. Rồi chúng túm đầu tao lôi đi như bắt con chuột trong lỗ. Lúc bị quẳng lên thùng xe, tao cầm chắc cái chết. Nhưng bọn nó chỉ đưa tao đi, “tẩn” cho vài trận rồi giam ở Biên Hoà, ra cả Phú Quốc. Khi bị bắt tao khai tên, họ địa chỉ hoàn toàn khác, là cái làng Chi Lăng quê ngoại nhà tao ấy”.

 

Tôi hỏi: “Bác khai tên họ và địa chỉ khác như thế để làm gì ạ?”.

 

Bác Học bảo: “Như cái ông ở làng bên đây nhé. Chẳng biết là nó tóm được hay chỉ nhặt được giấy tờ, nhưng hồi đó ở chiến trường ngày nào từ cái loa phóng trên máy bay cũng réo đúng tên, tuổi quê quán, đơn vị. Nó đọc danh sách những người đã chiêu hồi chính nghĩa quốc gia. Như thế thì mày sẽ hiểu, tại sao tao lại khai tên tuổi quê quán khác”.

 

Tôi lại hỏi: “Thế sao bác bảo bị bắt sống lại là đỏ?”.

 

Bác Học bảo: “À, đỏ là vì ngày 24/3/1973 thì tao được trao trả, một trong những thằng đầu tiên, vác gáo về với mẹ”. Rồi cười ha hả.

 

Bác Đấu bảo: “Hôm trao trả các ông, tôi cũng đang ở Quảng Trị, nhìn mãi mà không thấy thằng nào quen”.

 

Bác Học bảo: “Bọn tôi vứt hết quần áo, đồ ăn với cái túi vải mà bọn nó dúi vào tay cho ở bờ Nam sông Thạch Hãn, mặc mỗi cái quần đùi bơi về bên bờ Bắc. Thằng nào cũng lộn nhộn như nhau thì làm sao ông nhận ra được”.

 

Tôi hỏi luôn: “Ô, thế “bên kia” họ đối đãi với các bác cũng đàng hoàng quá nhỉ. Trao trả mà còn chuẩn bị cả hành trang cho về quê nữa ạ”.

 

Bác Học bảo: “Đàng hoàng cái con khỉ khô, trong tù bọn nó đối xử với tù binh như chó cả thôi. Chỉ khi trước ống kính truyền thông thì bọn nó làm màu ra như thế. Của đáng tội, hôm ấy nhìn thấy thịt hộp, với cơm sấy khô, bọn tao cũng thèm rỏ rãi ra. Nhưng trên đã quán triệt rồi, thèm mấy cũng phải gạt đi mà về. Mình còn danh dự chứ”.

 

Tôi mới xem phim Mưa Đỏ nên quay sang bác Đấu hỏi luôn: “Thế trước đó bác có tham gia trận tám mốt ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị năm bảy hai không ạ? Trận ấy kinh khủng quá bác nhỉ. Cháu chỉ mới xem phim mà đã run hết cả người”.

 

Bác Đấu bảo: “Tao nhập ngũ sau bố mày với ông Học đây mấy tháng, đi thẳng vào Quảng Trị nhưng đánh đấm vòng ngoài, chủ yếu là tiếp tế hậu cần với chi viện thôi chứ vào trong Thành Cổ thì có mà nằm lại dưới đáy sông Thạch Hãn rồi. Mày bảo, tao có thằng bạn quân lực trung đoàn nó kể, đơn vị nó tổng quân số hai nghìn rưỡi, đánh nhau xong, trừ số hi sinh, bị thương nặng, đào bỏ ngũ ra, cộng lại còn đúng ba trăm, thì còn người đâu mà về nữa, hả con?”.

 

Rồi sau đó thế nào nữa, bác? – Tôi hỏi thêm.

 

Bác Đấu lại kể tiếp: “Sau đó đơn vị tao vào sâu trong kia. Đánh nhau đủ các kiểu nhưng may sao chẳng bị thương phát nào. Ngày giải phóng Sài Gòn, tao cũng có mặt. Anh em lấy xe của chế độ cũ để lại vận chuyển hàng hóa, chở quân chạy long nhong khắp thành phố. Có thằng lái xe ấm ớ, chưa học qua trường lớp nào nhưng cũng cứ chạy liều, đến khúc cua bờ sông phanh gấp, thế là cả xe lộn nhào, chết hết ráo. Thì tao ở đơn vị hậu cần mà. Chuyến xe cuối cùng tao ngồi trên cabin, chạy chưa được chục cây số thì bỗng phát nổ phía thùng xe. Tao nghe đánh rầm một cái, lao đầu về phía trước rồi không biết gì nữa. Thì ra trước khi bỏ lại, bọn nó gài mìn, mày ạ. Khi xe chạy đến đoạn đường xóc thì mìn nổ. Tỉnh lại, tao thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Thế là sống sót trở về”.

 

Tôi hỏi hai người bạn chiến đấu của bố: “Thế bố cháu với hai bác liên lạc với nhau khi nào ạ?”.

 

Bác Học bảo: “Hòa bình rồi bọn tao tìm đến nhà nhau ngay chứ. Đợt đó, tổng số quân Tiên Hưng đi cùng tao với bố mày chẵn hai chục. Hết chiến tranh về còn mười thằng. Giờ còn bảy. À, mà bố mày mới đi rồi thì chỉ còn sáu thôi”.

 

Tôi cũng từng nghe bố kể, về đến trại an dưỡng Tiền Hải, bố đã hỏi thăm tin tức đồng đội nhưng phải đến hoà bình thì mọi người mới tìm gặp lại được nhau. Nhưng hỏi cũng chỉ là để xem ai còn ai mất, vì mỗi người một quê, mỗi người một việc chứ có phải thành lập hội nọ, nhóm kia như sau này đâu. Tuy ở chung một tỉnh nhưng cũng phải vài ba năm mới có dịp đến nhà thăm nhau một lần.

 

Bác Học về làm anh thuỷ nông, đi xe bò đuôi; có thời gian người ta ưu tiên đảng viên, cho làm thu chi hợp tác, nhưng chả biết ghi chép sổ sách thế nào mà thâm hụt ngân sách bạc trăm suýt nữa thì đi tù; người ta chuyển ra cho làm chân coi uỷ ban đến khi không còn đủ sức khoẻ thì nghỉ hẳn, chả có chế độ gì. Các con lớn đã ra ở riêng, chỉ còn lại thằng út, gần bốn chục vẫn chưa vợ. Nghe đồn nó ế từ ngày ông được hưởng cái “chất độc màu da cam”. Bây giờ, hai ông bà hưởng bốn phần tiền trợ cấp, quê tôi quen gọi là đầu “lương”: Trợ cấp thương binh, tù đày, da cam và huy hiệu năm mươi lăm năm tuổi Đảng của ông. Tổng thu nhập hằng tháng, trên bảy triệu.

 

Còn bác Đấu, sau khi xuất ngũ về địa phương, năm bảy tám bác tái ngũ lên biên giới phía Bắc đánh Tàu thêm hai năm nữa. Sau đó, họ chuyển bác về huyện đội Đông Hưng. Đến năm tám hai, huyện lại gọi bác lên, vận động đi tiền trạm vùng kinh tế mới mãi tận Kiên Giang. Bác bảo: “Các ông xem, tôi có ba mươi bảy cân, đánh nhau từ Nam chí Bắc hơn chục năm rồi. Bây giờ như cái vỏ chanh, còn có tí ti nước nữa là hết sạch. Các ông định vắt kiệt tôi à?”. Nghe thế, các ông ấy bảo, thôi thế ông về đi, chúng tôi bố trí công tác địa phương. Thế là mấy tháng sau, bác phục viên về làm ở quân sự xã, sau này lên đến xã đội trưởng thì nghỉ hưu hẳn. Hồi đó xã đội chưa có công chức nên lương hưu thấp, thêm tiền trợ cấp thương binh hạng ba trên bốn và chất độc da cam, “mỗi tháng bác mới được hơn bảy triệu một tẹo”.

 

Hai bác bảo: Bọn tao với bố mày chỉ ở với nhau mấy năm nhưng đó là quãng đời đáng nhớ nhất. Cuối đời rồi, anh em mới rảnh rỗi nên thường hay bố trí gặp nhau. Rượu thì chẳng thằng nào còn uống được nữa nhưng tay bắt mặt mừng và ôn lại bao nhiêu chuyện của những ngày chinh chiến. Người lính từng ở chiến trường sống chết có nhau nên tình nghĩa là thực sự và cũng chẳng mối quan hệ nào có thể so sánh được. Gặp nhau là để sống thật với chất lính, chất thằng người trong mình thôi.

 

Tôi chở mẹ về theo con đường dọc bờ sông uốn khúc. Con sông Tiên Hưng biết bao đời vẫn hiền hòa trong mát. Nhưng giờ đây, bờ bãi ven đê và nhiều chỗ là cả lòng sông bị người ta lấn chiếm làm hàng quán, làm nhà ở nên hẹp dần. Chỉ riêng rặng nhãn hai bên đường tuy đã già mà vẫn sum suê bóng mát. Năm nay được mùa, những chùm quả trên cành đan bện vào nhau sai chi chít ngỡ như lưới nhện.

 

Mẹ tôi bảo: “Hồi bố con còn sống vẫn kể, khi chiến đấu ở chiến trường, bố con bị thương chết ngất đi không còn biết gì nữa, đến nửa đêm mối rừng Trường Sơn đã xông hết một mảng thịt, dọc từ đùi xuống tới gót chân. Nếu không nhờ bác Học đi tìm rồi cõng về quân y trạm thì đến sáng chỉ còn lại bộ xương thôi”.

 

Tôi nói vâng, con cũng nghe bố kể chuyện này. Bố bảo, bác Học mãi mãi là ân nhân cứu mạng.

 

Mẹ tôi nói tiếp: “Còn chuyện này nữa, năm bố mẹ mới lấy nhau, chính bác Đấu đã cho bố con mượn nửa tạ thóc ăn, giữa mùa giáp hạt. Mấy năm sau bố mẹ mới trả lại được. Còn năm tám hai, bố đưa ông ngoại đi mổ ruột thừa ở bệnh viện Cống Vực, nhà mình không có một xu. Bố con cầm trong người mỗi cái thẻ thương binh, lại chính bác ấy đã cho bố con mượn tiền để thanh toán viện phí. Trong khi, bố con hỏi mượn ông anh họ của mẹ là bác sĩ, ông ấy chối đây đẩy, bảo không có. Vậy mà hôm nay, không hề nghe hai bác kể lại một lời”.