VŨ HÓA – Truyện ngắn của Phạm Giai Quỳnh

1.

Dòng máu mới trùm qua dòng máu cũ giờ đã hơi khô, nhưng từ cảm giác, mi biết rằng chẳng mấy chốc, chất dịch nóng ấm ấy sẽ lại rỉ ra, phủ lên tất thảy.

Giống như nhựa cây, mi sẽ kể khi còn có thể, đó là một gốc long não mà mi chẳng biết được trồng tự bao giờ, tán rất rộng, trùm kín khoảng sân trước. Mi chơi trong sân, tò mò dùng móng tay cáu bẩn cạy những vảy địa y. Lá long não tỏa ra mùi hắc ngái khi vò trong tay, mi tò mò xách rựa ra bổ vào gốc… Nhưng rồi mi lại nhớ tới nhựa cành giao, màu trắng (hẳn là vậy), túa ra thành từng hạt nhỏ khi bị bẻ gãy, vô tình làm mi nghĩ đến máu trên đầu ngón tay khi bị lưỡi dao lam liếm qua.

Thời gian – mi đã quên – mi tựa như một du hồn đi mãi trên con đường khôn cùng, trong cõi thời gian miên viễn. Có thể tất cả chúng ta đã chết, thảy chỉ còn là ảo ảnh được lặp lại, mi nói nhưng không chắc rằng đó là lời mình. Cố gắng nhấc tay chân lên trong cái tình thế đáng cười này (mi đoán), mi nhớ đến hình ảnh một con nhện khổng lồ vùng vẫy trên chiếc cật tre trong tay mình hồi nhỏ, con nhện ôm trứng bị lửa liếm xém tỏa ra mùi khen khét, ban đầu còn vẫy vùng rồi sau đó im hẳn. Giờ đây tình cảnh của mi cũng vậy.

Mi biết mình bị lạc trong rừng khi đã vòng qua khúc cây khô này bốn lần, thân cây chưa hoai mục hết mọc đầy rêu xanh ẩm ướt. Lưng ướt đẫm mồ hôi song không khí vây bọc lại buốt lạnh, hơi giá xâm nhiễm vào lồng ngực, và mưa. Cơn mưa rào đột ngột xối xuống bị muôn nghìn tầng tán ngăn lại, xe thành từng giọt nhỏ, kéo chấm mặt đất. Tựa tơ nhện, mà cũng không phải. Bạn đã từng bắt gặp rễ si chưa? Mi hỏi, ừ, trong làng tôi ngày xưa từng có một gốc si cổ thụ, nghe đâu có tên trộm chết ở đó rồi được lập làm Thành hoàng, cây có từ bao giờ ư? Tôi cũng không rõ nữa, lâu lắm rồi… tôi không ngoa, rễ của nó phải lên tới hàng trăm hàng nghìn, cũng giống như cơn mưa này vậy. Bạn bảo bạn chưa từng gặp cây si nào như vậy ư? Thế tôi cũng chẳng biết phải giải thích ra sao, vì gốc si mà tôi kể đã bị sét đánh chết trong một đêm giông gió, không sót lại hình ảnh nào, chỉ loáng thoáng trong lời kể của những ai từng thấy nó, phần đa, họ đã mất, làng còn lại mình tôi.

Mi ngước lên, một giọt mưa rỏ vào mắt, nước loang ra căng trên đồng tử, xót, chớp, nước chảy dài trên má, thấm vào cổ. Mi lần chai rượu trong túi dết, rượu còn rất ít, lắc lên nghe lọc xọc, dốc nốt vào miệng. Rượu gạo cay ngọt, hơi nồng lan từ đầu lưỡi xuống họng, chảy xuống dạ dày rồi như thể tản ra khắp các mạch máu, làm các đầu ngón tay và chân ấm dần lên. Giọt cuối cùng quấn quýt mãi ở miệng chai, lần lữa một hồi rồi mới rơi xuống.

Mi quyết định ngồi xuống ngay trên gốc cây đổ, phần vì đã thấm mệt, phần vì chán nản khi quẩn quanh mãi một nơi. Chọn một nơi khô ráo nhất, mi lấy bút ghi âm ra và ghi lại hành trình nửa ngày qua của mình, xong xuôi, nhai nốt nửa miếng lương khô còn lại. Trệu trạo.

Cành phong lan mang màu phớt tím chờm ra khỏi thân cây trước mắt, một con bướm phượng ruổi theo mật phong lan giật thót vì bắt được hơi hướm đến từ kẻ xa lạ đang xâm nhập vào khu rừng của mình, vỗ cánh vờn quanh rồi lánh khỏi đó.

Mi đứng dậy, mò theo nó.

Như bị mê hoặc.

Người ta nhắc tới hội chứng si cuồng phong lan, dương xỉ, mi thì khác, cả đời mi đuổi theo những cánh bướm.

Thầy mi cũng vậy. Tuy đôi lúc khắc khẩu, nhưng họ sẻ chia niềm say mê với nhau, đều đuổi theo những thứ phù phiếm với đời sống ngắn ngủi, giống như tia chớp lóe ngang qua bầu trời rồi bặt tăm thời thơ ấu, đã trông thấy là chẳng thể nào quên được. Nhưng rồi, một ngày nọ, thầy mi biến mất, hay nói đúng hơn là mất tích, ông vào rừng và chẳng bao giờ quay về nữa, chỉ tìm thấy chiếc đồng hồ quả quýt kiểu cổ mà mặt bên là chân dung của người chủ nhân đầu tiên. Ấy là một người đàn ông gày gò với bộ râu quai nón choán mất một phần ba gương mặt khắc khổ, mắt y rất sâu, đen nhánh, tuồng như bất động khi nhìn thẳng vào người đối diện, thầy mi bảo.

Nhưng sao thầy biết? Mi hỏi và bổ sung, về ánh mắt y.

Ta biết, là thế đấy, ta biết mà chẳng cần nhìn thấy, đôi khi điều ấy lại chính xác hơn cảm giác đến từ xác phàm – cái cảm giác thường phỉnh phờ chúng ta, thầy đáp. Bấy giờ họ đang ở trong vườn ươm phong lan, không nhìn thấy được nét mặt ông nên mi cũng chẳng thể lường được sự thực trong đó, vả chăng, mi cũng chẳng mấy quan tâm đến điều ấy.

Sự thực, mi bật cười rồi lẳng lặng ngắm đám sương mù đang bao bọc lấy mình.

Mi gặp thầy mình lần đầu trong một cuộc hội thảo về phong lan ma, nói đúng ra ông không phải là người nổi bật trong số các học giả ngồi ở đó bấy giờ, thân hình hom hem tròng trong bộ quần áo quá khổ khiến ông càng trở nên nhỏ bé, trở thành kẻ xa lạ. Rìa, mi nói, tôi thường để ý đến những thứ bên rìa, cả người và vật; như ranh giới bao bọc lấy thế giới, nếu không có họ, tôi không rõ vũ trụ sẽ vận hành ra sao. Ông rất kiệm lời, chỉ chăm chú lắng nghe, nhưng ánh mắt nhìn những nhánh phong lan luôn ngời sáng, hừng hực lửa, cái ánh mắt chừng như muốn thiêu rụi cả thế gian tăm tối. Bây giờ nhớ lại, mi nhận ra rằng ông nói mà người ta chưa bao giờ nghe, chưa bao giờ để ý, như thể bị đẩy ra khỏi vòng tri nhận của họ. Đáng buồn thay, điều tầm thường lại chiếm phần đa, mi vẫn cười.

3.

Cánh chim xanh liệng qua tầm mắt. Một cánh chim nhỏ, rất nhỏ, mi bảo, tôi không biết nó thuộc giống nào, anh có biết không? Mi cố gắng miêu tả: Lông xanh biếc, đầu chỉ nhỏ cỡ đầu ngón tay, mỏ bén và sắc giống như con chim tôi từng nhặt được trong bụi lau sậy, nó thường đứng ở ngay cạnh chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng, nhìn chằm chằm vào trong, lắc lư đầu theo nhịp chuông đánh với một bên chân co lên vì bị gãy. Lúc trông thấy, một nửa thân của nó bê bết máu tươi, không biết bị đồng loại hay con người tấn công. Tôi nuôi nó chừng nửa năm cho đến khi vết thương ấy lành lại rồi thả về rừng.

Mi nghĩ mình cần phải chép lại. Song với tình cảnh này, mi nở nụ cười, đành chịu vậy.

Mi vô thức nhớ đến gã.

Con đường trước mắt ngày ấy trải dài tít tắp, mi ngồi xuống bên vệ đường, vặn bình nước mới hứng ra hớp một ngụm rồi vốc vào tay để vỗ lên mặt cho tỉnh táo. Thầy vẫn bặt vô âm tín. Trời về chiều, xuyên qua các thân tùng mọc thưa có thể thấy được sắc hồng phết dần lên nền trời. Trời dần tối, gương mặt thực sự của ngọn núi cũng dần lộ ra, tựa một kẻ phải đeo mặt nạ lên và bước ra ngoài khi trời tỏ, lúc về nhà, điện tắt, hắn mới bộc lộ bản chất con người thật của mình – đau đớn, bẽ bàng, đầy rẫy ham mê và dục vọng. Mi biết chung quanh ngập tràn nguy hiểm nếu mình không ra khỏi núi lúc này.

Ở trong rừng lâu ngày, con người thường sẽ mất khả năng phân biệt thực và ảo. Thầy mi bảo ấy là cơn điên rừng, cây cối có ngôn ngữ riêng, phần đa hiền lành, nhưng đôi khi cũng tàn nhẫn, chúng sẽ ám vào con, những ngôn từ ấy sẽ ám vào con…

Mi nhìn thấy gã đang lóp ngóp bò dậy từ vũng nước đọng, những lớp lá mục chất dày theo thời gian sẽ biến thành cái bẫy cho những kẻ hậu đậu, nom gã bước hụt lần nữa, mi bỗng dưng buồn cười, rồi dấy lên lòng cảnh giác. Mi lặng lẽ đứng. Gã quệt bùn dính trên má, càng quệt càng lấm lem, vô thức, mi nghĩ tới loài sáo (dù sự so sánh này hơi khập khiễng), đồng thời mi cũng nghĩ đến mình. Mi giơ đầu gậy leo núi của mình cho gã. Có lẽ gã cũng giật mình bởi điều này nên phải quan sát mi hồi lâu, sau khi trông thấy chiếc ba lô leo núi, gã mới bật cười nói lời cảm ơn rồi bám vào đầu gậy, nhờ mi kéo lên. Đó là một vũng nước kỳ lạ, sau này mi ghi lại trong sổ tay của mình, trông thì rất nhỏ, chỉ như vũng trâu uống nước, nhưng phải mất một lúc lâu tôi mới lôi gã lên được.

Gã bám vào một thân cây gần đó, thân cây mọc đầy rêu, địa y khiến gã trượt xuống lần nữa. Lần này, gã phá lên cười, giữa rừng, âm thanh đó vang vọng, dội lại dấy lên cảm giác rờn rợn. Khi đứng dậy được, quần áo của gã đã bám đầy bùn, vụn lá cây, đất và rêu, thứ mùi hơi ngái của đất phả ra rõ ràng hơn làm mi nghĩ đến mùi đất sau cơn mưa trút. Mi ngẫm nghĩ xem mình nên lên tiếng thế nào.

Bắt chuyện với một người xa lạ là vấn đề nan giải, mi nói và bước đi trước, tuy nhiên mới đi được mấy bước thì đã dừng lại để chờ gã. May mắn thay, gã là người hoạt ngôn. Mi không cần hỏi gì, gã đã tự kể tất cả, rằng mình lên núi ra sao, lạc đến nơi đây thế nào… Hết thảy. Mi ngẫm nghĩ, giống như một kẻ rất lâu rồi mới tìm được ai đó để giãi bày, gã đi theo và nói hết những gì mình muốn nói. Có đôi khi mi không rõ phải đáp lại ra sao, chỉ gật đầu ậm ừ. Sương bắt đầu giăng dày hơn, ánh đèn pin trong tay yếu dần, bây giờ chỉ còn một cách ấy là nghỉ chân tại đây. Gã đặt ba lô xuống, bảo mình mang theo lều. Họ dựng lều gần đó. Mi chia cho gã thịt khô và nước. Kiểu đi rừng này của anh cứ như mấy nhà thám hiểm cách đây cả thế kỷ, gã đùa. Mi chỉ cười, không nói năng gì. Đó là thói quen hình thành nên khi đi theo thầy ngày đây mai đó, dần dà mi vẫn y theo như thế ngay cả khi ông đã biến mất.

– Cho anh xem tranh tôi vẽ! – Gã chìa cuốn sổ tay bằng giấy xi măng được đóng dối, bên trong đầy những bản phác thảo cây cối, chim muông, thảng hoặc xuất hiện hình ảnh con người, hay nói chính xác hơn là hình ảnh của một người đàn ông, mi cảm thấy rất quen nhưng không sao nhớ ra được. Trước lòng nhiệt tình ấy, mi đâm ra lúng túng, và cũng chìa cuốn sổ tay của mình cho gã xem. Dù có thể gã chẳng mấy hứng thú với những gì trong đó… Song ngược lại với những gì mi nghĩ, gã vui vẻ như một đứa trẻ.

Đêm, sương quẩn thấm vào trong lều làm nhòe đi đường nét trên gương mặt gã, mi chần chừ một chốc rồi bắt đầu kể về thầy mình, về quê hương nơi mình chẳng thể trở về, về loài bướm với màu sắc đỏ rực như máu chỉ xuất hiện trong rừng sâu, về loài phong lan ma, về những cuộc biệt li, kể cho đến khi nền trời dần tỏ thì nhận ra gã đã ngủ thiếp đi với đôi cánh tay che lấy khuôn mặt.

Trên chân gã có một vết sẹo rất lớn, thoạt nhìn có thể đoán được vết thương ban đầu gần như ăn sâu vào xương, mi phát hiện điều này khi gã xắn gấu quần lên để lội qua suối. Tôi tưởng mình thọt đến nơi đấy, gã nghiêng đầu nhìn mi.

Gã không ăn thịt, mi nói, đây là điều mà mi nhận ra sau vài ngày băng rừng cùng nhau, gã thường mang theo một túi gạo rang nhỏ, thảng hoặc lại vốc ra tay rồi nhón lấy – từng hạt một.

Họ đồng hành với nhau suốt ba năm, và rồi cũng giống như thầy, một sáng nọ, mi không tìm được gã nữa. Như thể quãng thời gian trước đó chỉ là ảo ảnh.

4.

Một cành cây quệt vào bên má, đau rát, nhưng cũng mặc, mi vẫn ruổi theo cánh bướm nọ, cho đến khi nó mất hút bên căn nhà gỗ. Lệ thường, mi sẽ cảnh giác trước những gì xuất hiện bất ngờ đầy xa lạ như vậy, nhưng giờ đây, sắc đỏ kia nhuốm vào tầm mắt chừng như choán kín tâm trí, cơn hưng phấn chảy rần rật trong người, sục sôi lên máu huyết gần như đã nguội lạnh. Ảo ảnh vân nhũ lấp lánh ở đuôi cánh bướm nhoáng lên dưới vòm rừng âm u ẩm ướt trong cơn mưa dai dẳng, chập chờn như mộng. Mi dừng chân, thở thật sâu để lấy lại bình tĩnh. Phải, bình tĩnh, mi bảo, cơn bốc đồng thường dẫn người ta đến cái chết chẳng thể tránh khỏi, song tôi cũng không chắc lắm, chẳng ai nắm tay từ sáng đến tối cả.

Mi lùi lại một bước, rồi hai bước, ra xa đủ để quan sát căn nhà một cách toàn diện. Thường dân đi rừng sẽ dựng lán để nghỉ chân, không lạ, nhưng một căn nhà – dẫu nhỏ – thì khác. Mi sấn đến gần, ghé mắt qua ô cửa sổ nơi cánh bướm bay vào, cố không chạm vào lớp rêu ướt lấm tấm xanh bên ngoài. Ô cửa sổ mở toang, chẳng ngại ngần, chẳng cảnh giác. Bên trong tối như mực khiến mi phải nheo mắt thì mới quan sát được toàn bộ quang cảnh. Trong mọi hoàn cảnh, mi luôn giữ cho đôi mắt mình mở to với ánh nhìn trực diện, thầy mi thì khác. Khi quan sát, ông có thói quen nheo mắt lại, mi lần thuốc lá trong người nhưng tiếc thay chẳng còn điếu nào cả, và chân ông như luôn vướng thứ gì đó, chốc chốc lại giơ lên, vung vẩy.

Trong nhà, chỉ có một bộ bàn ghế thấp, một tủ gỗ nhỏ, những cuộn thừng và dao rựa chất trong góc, đánh mắt xa hơn có thể thấy củi khô xếp gọn, một cái kiềng ba chân đặt trên khuông bếp đất đào trong góc đã được cời sạch tro than. Những bức hình – mi không thể quan sát cụ thể bởi bụi đã phủ kín chúng. Và điều này tạo sự khập khiễng đầy bất an. Thảy sạch bong, chỉ có chúng là nhòe mờ. Dường như chính chủ nhân của căn nhà không muốn ngắm nghía những tấm giấy thộp lại khoảnh khắc này làm gì song cũng chẳng đành lòng cất đi.

Chúng ta thường lãng quên những gì sáng rõ trước mắt và ngược lại, thầy mi từng nói.

Cánh bướm đỏ đậu lên nắp ấm gác dưới khay trà, đâu đây trộn lẫn trong mùi đất hoi hoi ẩm ướt và mùi lá cây có cả mùi tốc hương nhàn nhạt. Rõ ràng, nhà có người. Giữa rừng sâu, điều này trở nên đáng sợ hơn bao giờ hết. Rờn rợn sống lưng, mi biết mình nên rời khỏi đây, song nghĩ là một chuyện, còn mong muốn thực sự lại là chuyện khác. Chân như đeo chì, mi cứ đứng đó, nhìn chòng chọc vào trong (mi đoán nếu có ai đó đang quan sát câu chuyện này, họ sẽ hiểu hơn).

Có tiếng bước chân. Mi nín thở, lắng tai nghe.

Tiếng bước chân như thể dằn lên nhịp tim hồi hộp của mi.

Từng bước,

từng bước,

từng bước.

Nó vô tình khiến mi nhớ đến tiếng nước đánh giọt trong chậu thời thơ bé. Mưa xối, mi ngước nhìn mái nhà lung lay chực sập, ánh nhìn bị bọt nước bắn tung lên thu hút. Điện mất, nhà thắp mấy cây nến tù mù, loại nến làm bằng mỡ bò hễ đốt lên là tỏa mùi khét ngấy. Ông ngoại cứ thế hơ nóng trôn nến rồi cắm thẳng xuống bàn. Cháy một độ nhất định, sáp nến chảy ra sẽ bị viền sáp đón lõng, rồi tim nến lại thiêu đốt tiếp viền sáp, đẩy những giọt sáp bỏng rẫy xuống. Mi đưa tay chạm và rụt lại ngay, đầu ngón tay bỏng, dấp dính, nhầy nhầy chất mỡ. Con mèo mun quẩn quanh chân người tìm hơi ấm, không gian bốc lên một luồng hương kỳ lạ, như mùi bồ kết mà cũng không phải. Gió rít ngoài cửa khiến lòng người hãi hùng.

Tấm ván gỗ gồ ghề được bào đẽo làm cửa khẽ nghiến lên một tiếng rồi nhích ra, bóng người đàn ông dần hiện rõ trong tầm mắt.

Chiếc đồng hồ quả quýt như tuồn ra hơi giá, ướp lạnh cả khoảng ngực nơi nó chạm vào vì người đàn ông đó đã ngẩng lên, nhìn chòng chọc vào mi, đúng như lời thầy, ánh mắt ấy tuồng như bất động và sâu hút. Nỗi sợ hãi tràn đến làm mọi giác quan trở nên tê liệt, tai mi ù lên và đầu óc trống rỗng chẳng nghĩ được điều gì khác. Chạy! Mi muốn chạy trốn. Hiềm rằng, người đàn ông đó chỉ nhìn mi như đang nhìn ra ngoài cửa sổ – vô tình và bất định – hoặc như đang trông ngóng một điều gì đó mà thôi.

Người đàn ông ngồi vào bàn và tiếp tục bản phác thảo dang dở. Loáng thoáng trên những trang giấy là những cánh bướm dưới nét chì và bút bi, mi biết điều đó, như đã nói (mi nhắc lại), cả đời tôi đuổi theo những cánh bướm. Cánh bướm đêm khổng lồ đậu trên mắt mẹ khi bà qua đời, cánh bướm xanh biếc đậu trên cánh tay bố khi ông treo mình lên gốc cây trước nhà với căn bệnh tiểu đường di căn đã ăn mòn cả cơ thể lẫn tinh thần, cánh bướm cải đậu trên nấm đất nơi mi tiễn ông ngoại mình về chốn miên viễn.

Vũ hóa, mi nói, sao anh không biết khái niệm này ư? Vậy thôi cũng đành. Chúng ta chẳng cần phải giải thích tất thảy mọi sự trên đời, nhất là câu chuyện riêng mình. Sự khóc cười của anh, rốt cùng, chỉ liên quan đến cảm xúc cá nhân của anh, anh cảm động bởi câu chuyện đó giống với câu chuyện của mình, chẳng phải thế ư?

Như câu chuyện của tôi, mi thì thào, có thể anh sẽ thấy bất ngờ, sững sờ thậm chí là hãi hùng, song rất khó đồng cảm.

Mi vẫn chưa thở phào được ngay vì cảm giác quái đản không sao cắt nghĩa đang dấy lên trong lòng. Mũi chân nhích dần, mi lùi lại phía sau một quãng. Cánh bướm đỏ lao vụt ra khỏi cửa sổ, lướt qua tầm mắt, mi đưa tay ra với song chẳng đặng. Và hẫng, hụt chân, mi chới với, trượt ngã xuống vực thẳm.

5.

Thời gian dần bị xóa mờ trong thế giới của chúng ta, trước cả khi vũ trụ làm điều này, mi bảo, nó là đặc quyền của con người và cũng là nỗi bất hạnh của họ. Mi không đong đếm được mình đã rơi vào tình trạng này bao lâu, cũng không phân biệt được những gì mình đang trông thấy là thực hay ảo. Cảm giác đau đớn do bị mũi đá sắc nhọn thọc qua cơ thể cũng dần biến mất, thay vào đó là cảm giác nhẹ nhõm.

Cơn gió thốc qua, quẩn trong vệt sáng là rợp ngợp phấn hoa dày đặc, kết thành trảng không gian đa sắc, giống như phấn từ muôn vàn cánh bướm phấp phới trên nền trời xanh biếc vào buổi sáng mi và gã dạo qua con đường của rừng quốc gia.

Mi cố gắng động đậy những ngón tay – một lần nữa – hiềm rằng, cơ thể gần như tê liệt, các giác quan gần như không thuộc về mình.

Mu bàn tay rũ oặt xuống hơi ngứa ngáy, một con chim sà xuống bám lấy làn da rồi đây sẽ rữa nát để lộ xương trắng của mi, cái làn da chỉ là vỏ bọc của linh hồn. Và rồi, với một bên chân đã liền vết thương từ thuở ấy, nó vỗ cánh bay một quãng ngắn, đậu lên hõm cổ mi, kêu lên một tiếng bi oán rồi lao mình vào mũi đá nhọn với dòng máu đã khô vươn qua ổ bụng mi như một nhánh cây khô khốc.

Cánh bướm đỏ rực lướt qua mắt.

Máu ấm và nhớp rích xuống.

máu

Và đuôi

đuôi của nó rũ dài phủ lên lần mí mỏng khiến mi cảm thấy hơi ngứa ngáy.

Với đôi mắt trừng, khóe mắt toác ra và nhức mỏi, mi buồn ngủ nhưng không muốn nhắm mắt lại. Mi muốn ngắm nhìn bầu trời này, cả khi cái chết ập đến; mi muốn ngắm nhìn bầu trời này, cả khi đám sâu kiến gặm nhấm xác thân./

 

Đông, Đà Bắc, 1.12.2025