CHỢ “GIẬT LÙI” NƠI MƯỜI HAI TẦNG NÚI – Tản văn của Hà Minh Hưng

Sáng sớm. Sương còn đặc quánh như có thể vốc từng nắm. Trong màn sương ấy, âm thanh của chợ phiên vùng cao bắt đầu hiện ra. Tiếng lợn kêu ỉn ỉn, tiếng gà “xách tay” quang quác, tiếng xe máy gồng mình leo dốc lẫn tiếng vó ngựa gõ móng cồm cộp vào đá núi. Người chưa rõ mặt, chỉ nghe tiếng chân bước, tiếng người gọi nhau í ới, nói cười râm ran làm náo động cả một vùng biên giới vốn ngày thường yên ắng.

Chín giờ sáng, khi sương đã tan hẳn, mặt trời nhô cao chiếu rọi xuống thung lũng cũng là lúc chợ phiên mới “tỏ mặt người”. Sì Lở Lầu, xã biên giới heo hút của tỉnh Lai Châu dường như trở thành điểm hẹn không lời, nơi người Dao đỏ từ các bản làng trên mười hai tầng núi lặng lẽ đổ về. Họ chào nhau bằng thứ tiếng bản địa pha âm Quan Hỏa – thứ ngôn ngữ vừa thân thuộc như mạch nguồn cội, vừa lạ lẫm như tiếng gió ngàn đối với kẻ phương xa lần đầu ghé chợ.

Sì Lở Lầu, cái tên nghe đã thấy độ cao và sự thách thức, theo tiếng bản địa là “mười hai”, gắn với mười hai tầng núi điệp trùng. Có người nói, đứng từ chân núi nhìn lên thấy mười hai tầng núi xếp lớp lớp như mười hai tầng lầu. Chưa rõ lý giải nào đúng, chỉ biết, để đến được phiên chợ có một không hai này, phải vượt qua con đường quanh co trơn trượt, như thể đang leo lên điểm tận cùng của trời đất.

Đến chợ phiên Sì Lở Lầu, ấn tượng trước tiên là hình ảnh những phụ nữ Dao đỏ trong trang phục truyền thống rực rỡ với ba gam màu chủ đạo: “đen, đỏ, trắng”. Sự đối lập sắc nét giữa các mảng màu khiến họ nổi bật như những đoá hoa giữa núi rừng. Đặc biệt, từ cúc áo, viền khăn, hoa tai, vòng cổ cho đến chiếc xà tích đeo ngang hông đều được chế tác bằng bạc. Gặp ánh nắng, những thứ trang sức ấy lấp lánh như tia chớp nhỏ, ánh lên những vệt sáng chói lòa tựa đèn flash của người thợ ảnh, làm cho trang phục của họ như một bức tranh sống động giữa phiên chợ vùng cao.

Người dân nơi đây vẫn thường nói vui: “vượt mười hai tầng núi mà chưa tới chợ, coi như chưa đặt chân đến Sì Lở Lầu”. Cái tên chợ cũng lạ như chính vùng đất này. Có người gọi là “chợ Gia Khâu” vì chợ họp ngay trung tâm bản Gia Khâu. Lại có người gọi là chợ Sừng”, bởi chợ chỉ nhóm vào những ngày “con có sừng” – tức ngày Sửu và ngày Mùi theo âm lịch, nghĩa là phiên chợ sau cứ lùi dần theo vòng quay của lịch. Vì thế, người ta đặt cho chợ một cái tên khá ngộ nghĩnh chợ “Giật lùi”. Càng nghe, càng thấy như đang lần giở những trang cổ tích, nơi thời gian cũng biết đùa vui cùng con người giữa đại ngàn.

Chúng tôi dừng chân tại sạp hàng tạp hóa nằm nép bên góc chợ, ở đó cụ bà Sùng Tả Mẩy tuổi 97 vẫn nhanh nhẹn phụ con gái bán hàng. Cụ nhỏ thó, lưng còng nhẹ như cánh nỏ cũ, nhưng ánh mắt vẫn sáng và minh mẫn lạ thường. Nhìn cụ, tôi bất chợt nghĩ tới những bà tiên trong truyện cổ vùng cao: lặng lẽ, nhân hậu và ấm áp tựa khói bếp tháng Chạp.

Thấy chúng tôi thắc mắc vì sao ở đây phụ nữ nào cũng tên Mẩy, ông già người Dao Phàn Phủ Xiên giải thích bằng giọng trầm đều như tiếng suối chảy qua khe đá: “Trong tiếng Dao, “Mẩy” có nghĩa là “Gái”. Ông lý giải thêm, người Dao đỏ đặt tên con gái theo thứ tự sinh trong gia đình: Tả Mẩy là gái cả, Lở Mẩy là gái thứ hai, Sử Mẩy là gái thứ tư… Cứ thế mà gọi, mà nhớ, mà thương.”. Một cách đặt tên tưởng chừng mộc mạc, nhưng lại chuyên chở cả nếp sống, nếp nghĩ của người miền núi nơi con người không cầu kỳ chữ nghĩa, chỉ cần một âm thanh thân thuộc để gắn kết máu mủ ruột rà qua bao thế hệ.

Qua câu chuyện kể, chúng tôi biết được ông già Phàn Phủ Xiên – nguyên là Bí thư Đảng ủy xã Sì Lở Lầu, năm nay đã ở tuổi “thất thập”. Bà con trong vùng trọng vọng gọi ông bằng cái tên “Bố Bản”. Mái đầu bố Xiên giờ đã bạc như sương sớm đọng trên ngọn cỏ non, bước chân không còn thoăn thoắt như thuở trai trẻ, nhưng ánh mắt thì vẫn vẹn nguyên ánh sáng ấm áp như lửa tàn còn nhen nơi bếp cũ.

Người bản không nhớ rõ bố Xiên yêu chợ từ khi nào. Chỉ biết rằng, chợ phiên đều đặn sáu ngày một lần và cũng chừng ấy năm chưa khi nào người ta thấy vắng bóng “Bố Bản” trong ngày chợ về. Có lẽ khoảnh khắc định mệnh khiến ông đem lòng yêu chợ, thậm chí hơn cả mái nhà mình, là cái hôm chàng trai Dao dắt ngựa xuống bản Gia Khâu, lòng còn ngổn ngang như lối mòn chưa in dấu, rồi bất ngờ gặp một người con gái Dao đỏ với ánh mắt long lanh như sao khuya, dáng lưng uốn mềm như suối, bước chân nhẹ như con hươu rừng băng qua tầng mây sớm. Từ hôm ấy, không chỉ đem lòng thương người, Phàn Phủ Xiên còn thương cả cái chợ, nơi bắt đầu một cuộc đời mới.

Trong cái chợ “Giật lùi” theo vòng quay âm lịch ấy, ông Xiên luôn thấy một phần linh hồn người Dao đỏ hiện hữu. Mỗi lần nhìn những thiếu nữ vấn khăn đội đầu thêu chỉ đỏ, mặc váy đen viền bạc, mỗi lần nghe tiếng gọi nhau bằng tiếng Dao mềm như suối hát, ông lại thấy mình trở về thuở xưa – buổi sớm chợ phiên, cha gùi hàng lên lưng ngựa, mẹ dắt tay đàn con ghé hàng bánh mất, bánh chưng đen. Nhớ nhất là phiên chợ giáp tết, cha hào phóng thưởng bát thắng cố nóng hổi. Ông bảo: “Mỗi phiên chợ là một lần người Dao mình tự soi lại mình trong gương núi. Nếu còn mặc áo chàm, còn gọi nhau là “Mẩy”, còn phân biết “Sử” với “Tả”, thì văn hoá người Dao còn.”.

Từ người già đến con trẻ ở Sì Lở Lầu ai cũng nhớ  bố Phàn Phủ Xiên là người đầu tiên vận động, tập hợp người già mở lớp dạy tiếng Dao, chỉ cách nhuộm chàm, thêu hoa lên áo, làm bánh mật ngày tết, cất rượu men lá thơm cho lớp trẻ. Ngày nghỉ, ông đi từng nhà, vận động bà con mặc lại áo truyền thống khi đi chợ, trong ngày lễ, tết, để con cháu nhìn mà nhớ, người ngoài nhìn biết đây là người Dao đỏ.  Thời còn làm Bí thư xã, cái chân cán bộ Phàn Phủ Xiên không chịu ngồi một chỗ. Chân ông đi rừng nhiều hơn ngồi họp. Mùa khô suối cạn, tôi tối ông về từng bản chong đèn kể chuyện xưa, chuyện nay, ông bàn với bà con cách giữ rừng, giữ nguồn nước. Ông bảo: “Rừng mà mất, bản cũng trôi theo. Nước mà cạn, người Dao mình khát trước!”

Chúng tôi như lạc vào những câu chuyện ly kỳ của bố bản Phàn Phủ Xiên về thần rừng, về cách người Dao giữ rừng, yêu rừng. Đó là những mẩu chuyện dân gian về thần rừng –  đấng linh thiêng vô hình nhưng hiện diện sâu thẳm trong từng gốc cây, phiến đá, bờ suối. Người bản ở đây bảo, rừng thiêng không phải chốn ai muốn vào là vào, muốn lấy gì là lấy. Kẻ nào lén lút chặt cây, lấy củi mà không xin phép, hay nói năng càn rỡ, bất kính giữa rừng sâu… ắt sẽ bị thần nổi giận. Có người đang khỏe mạnh bỗng lâm bệnh lạ, người thì mắt mờ chân run, đi lang thang như kẻ mất hồn, lưỡi cứng miệng ngọng, thân tàn ma dại, thậm chí còn bỏ xác nơi khe suối âm u, giữa những gốc cổ thụ như đang thì thầm lời nguyền của núi rừng. Mốn thoát nạn thì phải lập đàn cúng tế, thành tâm xám hối, phải dựng lán trong rừng đủ bốn mươi chín ngày đêm, kiêng nói tục, không được sát sinh, chỉ ăn rau rừng và uống nước suối, miệng đọc lời khấn xin thần tha thứ… Nếu lòng thành đủ lớn, trời sẽ báo mộng, thần sẽ nguôi cơn giận. Còn không, người ấy sẽ mãi bị rừng giữ lại, vĩnh viễn không tìm được lối về.

Chẳng ai dám khẳng định thần rừng linh thiêng đến đâu, nhưng từ đời cha ông để lại, đã có một luật tục bất di bất dịch: mỗi năm chỉ được vào rừng đúng hai lần vào tháng Ba và tháng Sáu âm lịch. Khi ấy, thầy mo sẽ chọn ngày lành, thắp hương giữa bãi đất thiêng nơi đầu rừng, đọc lời khấn bằng tiếng cổ, xin phép thần rừng mở lối. Chỉ sau nghi lễ ấy, bà con mới được phép vào rừng nhặt củi khô, tuyệt đối không được chặt cây, đẵn gỗ hay săn bắt bất kỳ sinh linh nào đang trú ngụ trong rừng sâu. Người Dao đỏ nơi này tin rằng, mỗi thân cây đều có hồn, mỗi con thú là lính canh của thần, và nếu lỡ tay động đến là rước họa vào thân. Những câu chuyện nhuốm màu bùa chú như thể cứ ngày được dệt thêu, làm cho rừng Sì Lở Lầu càng thêm kỳ bí và ngày càng được người dân trông coi, bảo vệ nghiêm ngặt.

Chợ “Giật lùi” cũng như bao phiên chợ vùng cao khác, có đủ các mặt hàng, từ rau củ, quế, hồi, thảo quả, măng rừng, mật ong đến vải vóc, thổ cẩm, bạc trang sức. Nhưng đặc biệt hơn cả vẫn là những món ăn riêng có của người Dao đỏ. Chị Tẩn Sử Mẩy – chủ hàng đậu mời chúng tôi món “đậu phụ nhự”, được lên men cầu kỳ – món ăn truyền thống mát vào mùa hè, giữ ấm trong mùa đông. Rượu thóc lên men thơm nồng như hơi thở của đất, cứ rót mời mãi không thôi. Ở chợ này, hình như rượu không còn là thức uống, mà nó trở thành một thứ văn hóa đặc biệt, là thứ giao tình để người xa hóa gần, để kẻ lạ thành thân. Và chợ đâu chỉ để mua – bán. Chợ còn là nơi để trai gái hò hẹn, để vợ chồng dắt nhau đi chơi, bạn bè lâu ngày hội ngộ, để những tâm sự thầm kín có nơi giãi bày.

Giữa tầng tầng mây núi và mùi khói bếp phảng phất, chợ “Giật lùi” hiện lên tựa nét hoa văn sống động trên nền thổ cẩm khổng lồ của Sì Lở Lầu. Nơi ấy, con người không chỉ đến để mua bán, mà còn để giữ lại bản sắc, giữ lại một cách sống riêng giữa đại ngàn.

HMH

Đánh giá bài viết 1 Star (1 lượt bình chọn)
Loading...