“Đi một đoạn đường họ lại nhìn trời
Đi xa rồi họ đếm các vì sao …”
(Sử thi M’nông)
Ngôi nhà trệt có mái tranh trùm gần sát đất nằm ở chân một quả đồi, bên dòng suối nước xanh vào mùa khô đỏ ngầu vào mùa mưa. Có ai đó nói rằng ngôi nhà trệt của người M’nông là sự mô phỏng hang đá thời mà tổ tiên họ còn “ăn lông ở lỗ” trú ngụ. Chưa có cơ sở khoa học nào khẳng định tính đúng đắn của nhận định này, nhưng đây là một liên tưởng khá thú vị.
Những tia nắng vàng chiếu qua khe hở của tấm phên nứa báo hiệu hoàng hôn đã về. Trong nhà, một thiếu phụ dáng cao ráo, tóc dày phủ quá vai, đang dạy con gái đánh vần. Một ông già M’nông ngồi đan hom giỏ ở ngay cạnh cửa ra vào. Dũng bước tới, anh chào bố vợ, rồi vào trong nhà. Cháu bé chạy tới cầm tay bố, nó nói giọng pha âm sắc miền Trung:
– Bă (cha), con thèm ăn kẹo ! Dũng xoa đầu con gái và nói:
– Bố lấy ngay đây!
Blang, vợ Dũng ngăn con:
– Ăn kẹo sâu răng. Để mẹ cho con vở tập tô đẹp lắm!
– Con lấy cả kẹo, lấy cả vở tô.
Nghe con nói, Dũng nhớ tới lời của một người làm công tác văn hóa “khi làm từ thiện cho đồng bào phải chú ý không được làm mất bản sắc văn hóa của họ”. Ông ta thuyết giảng khi không “mặc nâu sồng” mà khoác complê. So với những đứa trẻ ở đây, con Dũng được coi là hạnh phúc lắm rồi. Bao đứa trẻ ngoài kia nhiều khi còn đứt bữa. Dũng cảm thấy mỉa mai, chua chát, đau đớn.
*
* *
Dũng tốt nghiệp loại giỏi tại một trường Đại học nổi tiếng ở Hà Nội. Chờ hai năm không có việc, anh vào Tây Nguyên để thử vận may. Dũng được ngành giáo dục địa phương phân về dạy học ở “xứ Bu Prâng” (bri Bu Prâng), trên cao nguyên M’nông. Tại đây, anh gặp Blang, giáo viên dạy môn Sử. Hai năm sau họ làm đám cưới.
Mẹ Blang là nữ cán bộ người Kinh, cha cô là người M’nông. Mẹ mất khi cô chưa tròn 1 tuổi. Học xong lớp 9, Blang được một người bạn gái của mẹ đưa ra thị trấn huyện ở cùng gia đình bà cho tiện việc học hành. Năm lớp 11, trong một kì thi học sinh giỏi của huyện, Blang đạt giải Ba môn Sử. Sau đó cô tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm với số điểm khá cao. Là học sinh thuộc diện chính sách, Phòng Giáo dục huyện dự định phân Blang về dạy ở một trường ngay thị trấn, nhưng cô xin về dạy ở Bu Prâng để còn tiện chăm sóc cha.
Lúc mới gặp Dũng, Blang còn dè dặt, kín đáo. Khi biết hoàn cảnh, tính tình của anh, cô thổ lộ lòng mình nhiều hơn. Cô khoe với Dũng lúc ở trường Cao đẳng, mọi người gọi cô là “Hoa khôi Blang”. Còn Dũng, anh ấn tượng mạnh về sự thẳng thắn, chân thành của Blang.
Qua một đồng nghiệp người Kinh dạy học ở Bu Prâng đã lâu, Dũng biết được mẩu thần thoại về chiếc lược chải đầu bằng đá của Bà Bung để lại. “Chiếc lược đá” nặng gần 100 cân. Ai nâng được nó lên cao hơn đầu, người ấy sẽ gặp may mắn, làm ăn phát đạt. “Chiếc lược” này nằm cách trường “nửa ngày đường” – người đồng nghiệp nhắc lại lời kể của một ông già ở bon làng Bu Prâng. Dũng muốn đi xem “chiếc lược đá” khổng lồ đó, nhưng đường xa, lại không thông thạo địa hình. Mấy lần Dũng định nhờ Blang, nhưng anh ngại. Cuối cùng Dũng cũng phải nói:
– Blang cho mượn xe máy được không?
– Anh đi đâu xa à? Blang hỏi.
Dũng nói:
– Không! Đi xem “cái lược bằng đá của bà Bung”.
– Anh có biết tiếng dân tộc đâu mà hỏi được đường? Để Blang đưa anh đi. Blang nói.
– Ờ… ờ … sáng mai chủ nhật đi đi! Cảm ơn trước nhé! Dũng ấp úng, ngại ngùng nói.
Hôm sau, mới sáng sớm Blang đã từ nhà đến trường đón Dũng. Tới cổng trường cô đã thấy Dũng đứng đợi. Dũng bảo để anh đèo, Blang không chịu, cô nói Dũng không thạo đi đường rừng.
Blang chở Dũng qua những quả đồi, cánh rừng nối tiếp nhau. Đến một gốc cây đa cổ thụ ở ven đường thì Blang dừng. Cành cây đa chiếm một khoảng không rộng lớn. Bầy chim lông xanh biếc đang ăn quả đa. Thỉnh thoảng mấy con chim lại đua nhau hót khuấy động không gian tĩnh lặng nơi này.
Xung quanh gốc đa cỏ tranh mọc kín, Dũng và Blang rẽ cỏ tìm kiếm “chiếc lược đá của bà Bung”. Bỗng hai con chó từ đâu chạy đến lùng sục như đi săn mồi. Dũng hoảng hốt vì sợ chúng cắn. Một nhóm người M’nông (người đeo gùi, người địu con, người vác xà gạc) đi đến. Dũng nhìn thấy trang phục của họ lẫn lộn giữa truyền thống và hiện đại. Blang hỏi:
– Đi rẫy à?
– Ừ! Một người đáp và hỏi:
– Tìm gì vậy?
– Tìm Net Bung mà không thấy. Blang nói.
Người đàn ông cầm xà gạc phát cỏ tranh. Thấy chủ làm vậy, hai chú chó càng lùng sục hăng hơn. Mọi người tìm kiếm khá lâu vẫn không thấy “chiếc lược đá” đâu. Dũng nói:
– Hay là lầm chỗ?
– Không phải! Net Bung nằm ở gốc đa này. Hồi trước, tôi đã chạm tay vào rồi. Người đàn ông phát cỏ tranh nói.
Những người M’nông vẫn mải miết tìm kiếm “chiếc lược đá” như một vật quí bị mất. Những trận mưa xối xả chốc chốc lại ập đến. Dường như những người này không quan tâm gì mấy đến trời mưa, có lẽ họ còn quên cả việc đi lên rẫy nữa! Đồng bào ở đây vẫn còn tất tả với cơm ăn áo mặc hằng ngày. Dũng thấy kính trọng họ và cảm thấy mình có lỗi.
Dũng và Blang chia tay những người đã cùng họ tìm kiếm chiếc lược đá của bà Bung. Dũng thấy mắt họ có vẻ đượm buồn. Có lẽ họ đang nghĩ về chiếc lược của bà Bung “thời ndrong” (cái quá khứ tuyệt đối của sử thi) để lại không biết bây giờ ở đâu ? Còn Dũng như được “thanh lọc” trước đất trời cao nguyên thanh khiết, khoáng đạt, trước những người nông dân vùng sơn cước lam lũ, có tâm hồn thủy chung, bền chặt với các biểu tượng mà cha ông họ để lại qua các vật thể được huyền thoại hóa. Dũng nói về đặc điểm của tư duy thần thoại và trong giai đoạn tiền sử con người đã xây dựng nên các biểu tượng trên cơ sở ham muốn của mình. Chiếc lược của bà Bung – Net Bung – ở người M’nông là một trong số những biểu tượng đó. Blang chăm chú nghe Dũng nói với một niềm thích thú, say mê.
Về sau, Dũng biết được một đội công nhân làm đường, dựng lán ở tạm dưới gốc cây đa. Thấy thanh đá vướng lối đi, họ đã ủi nó tới chỗ đất trũng và san đất lấp đi. Nếu biết được thanh đá đó là biểu tượng của khát vọng vươn lên trong cuộc sống của cả một cộng đồng người thì có lẽ người công nhân lái máy ủi đã không làm như vậy. Dũng chia sẻ ý nghĩ của mình với Blang, cô giáo trẻ người M’nông buồn lặng.
Blang quí, yêu, thương Dũng như một lẽ tự nhiên. Dũng dáng cao gầy, tóc đen dày phủ trán nhưng vẫn không che hết cái trán bướng và thông minh. Ngón tay thon dài, bàn tay mềm mại. Lần đầu tiên Dũng cầm tay Blang, cô nói: Bàn tay anh mềm như bàn tay trẻ con! Blang thương Dũng vì sống ở Thủ đô, còn bây giờ sống ở nơi hoang vắng này… Sống cạnh Dũng, tri thức của Blang được mở mang nhiều. Blang thành thực với lòng mình, Dũng là người chồng “ngoan”, cũng là người thầy giỏi mà cô chưa được học bao giờ. Nhưng có một điều Blang không hiểu được là có những điều đơn giản mà chồng cô cứ làm cho chúng phức tạp hơn lên. Thỉnh thoảng Dũng lại đọc mấy câu của nhà triết học này, nhà văn kia mà cô chỉ mới nghe tên họ lần đầu. Với Blang khi con người còn tham lam, lười làm việc thì sẽ không có “thế giới đại đồng”.
Blang chỉ thích nghe Dũng kể chuyện gần gũi với cô. Tuy vậy có những truyện khi nghe Dũng kể Blang không kìm được nước mắt. Đó là cái chết của cậu bé người Pháp Gavơrốt (trong tác phẩm Những người khốn khổ của V.Hygo) khi đang xông pha dưới làn đạn quân thù để gom đạn từ những xác chết cho phe mình. Thương cảm cậu bé người Pháp là vậy, nhưng Blang căm ghét quân Pháp xâm chiếm đất đai của ông bà xưa để lại. Bác Klôp nói Nơ Trang Lơng là Brah (Thần linh) vì ông đã đuổi quân Pháp ra khỏi vùng này. Cũng nhờ chồng mà Blang còn biết có ông người Pháp, tên là Condo (tên gọi thân mật của nhà dân tộc học nổi tiếng người Pháp Georges Condominas) yêu quí người M’nông như người ruột thịt của mình. Người Gar (một nhóm địa phương M’nông) ở vùng Lăk coi ông như người con của buôn làng. Mỗi khi về Việt Nam, ông Condo mang theo hai vali to đựng đầy quần áo cho con trẻ, người già M’nông. Biết chuyện này, Blang thấy mình phải giúp bố, giúp các em học sinh nhiều hơn.
Một sáng chủ nhật, Blang có việc phải ra thị trấn, bố đi uống rượu cần ở nhà một người bạn làm lễ mừng sức khỏe. Blang đã dặn chồng là cho con ăn uống cẩn thận. Lúc về, Blang thấy con đang khóc, vì bụng đói. Gần trưa chồng cô mới trở về với vẻ mặt hớn hở. Blang tức giận nói:
– Sách sử Nhà nước đã làm và in cả rồi. Anh cứ đi ghi chép làm gì tối ngày, để con đói?
Nghe vợ càu nhàu, Dũng cười nói:
– “Hoa khôi Blang” nghe đây! Anh giải thích: Sử thi “không phải là thơ chép sử” mà nó phản ánh buổi bình minh của lịch sử thông qua tư duy thần thoại. Một phần sử thi ot ndrong của người M’nông ít nhiều có sự tương đồng với sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường ở Hòa Bình. Sử thi cũng là một nguồn cứ liệu quan trọng cho ngành Sử học. Từ thế kỷ 19, một thương gia người Đức đọc sử thi Iliat của Homere, ông tin rằng thành Tơroa được miêu tả trong sử thi đó là có thật, ông đã tổ chức khai quật và tìm thấy thành Tơroa thật như những gì miêu tả trong sử thi.
Nghe chồng khen, giải thích sử thi là như vậy Blang rất thích thú và cô mới hiểu vì sao bác Klôp luôn nhắc con cháu học theo ông bà trong ot ndrong: ôn hòa như Yơng, Yang, dũng cảm như Lêng, Mbông, nề nếp như Djăn, Djě,…
Cơm trưa xong, Dũng rủ vợ mang theo con đến nhà bác Klôp ghi chép tài liệu về sử thi ot ndrong.
Con rể của bác Klôp là Điểu Srek, cán bộ Lâm trường. Ông này mới dựng ngôi nhà sàn toàn bằng gỗ quý, chỉ có mái là lợp tôn màu đỏ còn tươi nguyên. Ở được mấy hôm trong nhà mới thì Điểu Klôp xuống ngôi nhà trệt bên cạnh ở. Ông nói ở trong nhà mới khó chịu, không tiện lợi.
Blang gọi bác Klôp và đi vào trong nhà, Dũng bế con vào sau. Bác Klôp mới đi xúc tôm tép ở suối Ka về, ông đang nướng cá trên bếp than hồng, mùi cá nướng thơm lừng mà tinh khiết. Ông hỏi vợ chồng Dũng không đi dạy học à? (Klôp không có mấy ý niệm về thứ bảy, chủ nhật). Nói rồi ông lấy que tre cắm qua mang mấy con cá bỏ vào bếp than nướng tiếp.
– Hôm nay bắt được nhiều cá không, bác Klôp? Dũng hỏi.
– Nhiều, nhưng không bằng trước. Hồi xưa, dân làng bắt bao nhiêu tôm cá, tôm cá vẫn nhiều như vậy. Bây giờ tôm cá chạy đi đâu mất hơn nửa phần. Dũng muốn nói thêm điều gì nữa, nhưng anh cố kìm cảm xúc. Anh không muốn nói cho Điểu Klôp biết tại sao cá trong suối lại giảm đi nhiều như thế, bởi vì anh sợ làm mất đi cái cảm quan hiện thực huyền ảo vẫn còn nguyên vẹn ở người nghệ nhân già này.
Nướng bốn xâu cá, Klôp cầm ba xâu đưa cho từng người, còn một xâu giữ lại cho mình. Dũng được Klôp kể cho một chuyện thật huyền hoặc. Anh đã nhiều lần nhờ Blang hỏi lại nhiều chi tiết, anh sợ mình hiểu không đúng. Klôp kể rằng ông đã một lần “chết”. Lúc đó ông đi qua nhiều “cửa” để xuống bon Phan (bon làng người chết). Ông thấy suối nước, cánh rừng, nương rẫy giống như ở “lưng đất” (mặt đất) này. Trong sử thi M’nông có nhiều cảnh nói như vậy. Có thể Điều Klôp bị ám ảnh bởi sử thi và tín ngưỡng về thế giới ba tầng nên ông đã ngủ mơ như thế và nghĩ vô thức như vậy. Đó không phải là thác loạn thần kinh mà là ám ảnh tâm linh.
Điểu Klôp còn kể trước đây để chỉ đàn ông, người M’nông gọi là Nơ sau đó là tên người. Khi người Pháp đến thấy đàn ông M’nông quấn vành khăn quanh trán, ở đó cắm lông con chim công, nên họ dùng “Điểu” để chỉ nam giới. Dũng thấy lời kể đó ít nhiều có cơ sở, vì trong sử thi M’nông có nói đến tình tiết “lông chim” rất thú vị “Trên đầu Bông cắm thêm lông chim công/ Cắm thêm lông chim én / Cắm cả lông chim cu lưa thưa”.
Hồi còn ở ngoài Bắc, Dũng có nghe nói người Thượng ở Tây Nguyên có lễ hội đâm trâu để ăn mừng mùa màng bội thu. Vào đây ở, Dũng thấy tục này không đơn giản như vậy. Ở người M’nông, họ không gọi tục lệ đó là lễ đâm trâu mà gọi là lễ “ăn trâu” (Tăm sa rpu).
Trước đây mỗi lần “ăn trâu” là người M’nông trồng một cây gạo (blang) trong làng. Cây gạo đó không chỉ là biểu tượng cho sức sống dồi dào, sự may mắn mà còn là dấu hiệu để họ nhận ra bon làng cũ của mình. Trong lễ “ăn trâu”, trước lúc con trâu bị giết, một người phụ nữ có giọng trầm được chủ làng giao cho việc “khóc trâu” (nhĭm rpu). Người phụ nữ đó đến bên con trâu, thả từng cọng cỏ cho trâu ăn, rồi cầm ống tre đựng rượu vừa đổ nhẹ lên đầu con vật vừa hát khóc: “Trâu ơi ! Ta thương trâu lắm, cây cọc nêu họ đã dựng rồi, Trâu ăn đi lá cỏ lần cuối… Ta thương tiếc trâu lắm, Trâu ơi !”. Tâm thức M’nông coi việc con trâu đó chết đi là nó dâng hiến cuộc sống của mình cho sự bình yên, hạnh phúc của bon làng. “Một quan niệm có vẻ chiết trung, bao biện” – Dũng nghĩ. Nhưng rồi anh lại tự phản biện mình “Không ! Họ chân thành và xác tín”. Trong các nghi lễ nông nghiệp cúng thần Lúa được người M’nông tiến hành cẩn trọng, trang nghiêm vì họ lo sợ có sơ suất nào đó làm phật ý hồn lúa, hồn sẽ bỏ về trời dẫn đến hạn hạn, mất mùa. Trong số các con vật sống gần con người, voi được người M’nông coi như là thành viên trong gia đình, bon làng, họ còn tổ chức đám cưới cho nó, vậy mà “con voi ăn cây lúa, hồn lúa bỏ đi”, thế nhưng” con trâu ăn cây lúa, hồn lúa ở lại”. Sự dâng hiến của con trâu đã cảm hóa được cả hồn lúa – thần linh!
Ánh sáng trong ngôi nhà nhỏ và thấp không còn đủ để Dũng ghi chép, Blang cũng tỏ ra không muốn làm “thông dịch viên” cho chồng nữa. Cô muốn về nhà xem cha đã về chưa. Ba người vừa ra khỏi cửa, bác Klôp gọi giật giọng. Ông trả một cái túi vợ chồng Dũng mang đến lúc chiều. Dũng và ông Klôp cứ đẩy đi đẩy lại cái túi. Thấy vậy, Blang đi tới, cô lấy từ trong túi ra một gói đường nhỏ, còn lại đưa cho ông. Bác Klôp vui vẻ cầm.
Ông Klôp thật sự là “báu vật nhân văn sống”, nhờ nguồn tư liệu từ ông mà Dũng đã có được những hiểu biết nhất định về kho tàng văn hóa cổ truyền đồ sộ, phong phú của tộc người M’nông.
Vào nhà, Dũng ngả người trên cái giường gỗ trải chiếu hoa đã bạc màu. Anh đọc Bông, Rông, Tiăng, Yang, Lêng, Mbông, Deh, Dai, Lêt, Mai (tên các nhân vật trong sử thi M’nông) như là những người bằng xương bằng thịt mới quen. Còn Blang sắp xếp các đồ vật để bề bộn trên sạp tre của cha nằm. Nhìn thấy mấy đoạn ống dang xôi lam và một gói thịt nhỏ gói bằng lá cây nằm lẫn với các đồ vật khác, Blang biết là cha đã về và ra suối đơm cá.
Cha của Blang là người hiền lành, thật thà, ít nói, ông lo cho bạn, cho người thân hơn lo cho mình. Có lần ông và đồng đội đi vận chuyển lương thực cho Quân giải phóng, một cô gái người Việt tên là Liên, bị sốt rét mệt lả không đi được, chàng trai M’nông đó đã cõng cô luồn rừng, vượt suối mấy ngày liền. Họ có cảm tình với nhau, về sau đã nên vợ nên chồng. Vợ hy sinh lúc Nhông mới 40 tuổi, mặc dù người bạn gái thân của vợ đã nhận Blang làm con nuôi nhưng thương con ông chỉ ở vậy.
Ông Nhông về đến nhà, trời đã tối. Đặt gùi bên cạnh bếp, ông lấy từ trong gùi ra lá rơ nhau (tên một loại rau rừng dùng làm gia vị) và cá cho Blang.
– Ít cá thế cha ? Blang hỏi.
– Người ta nổ mìn bắt đi nhiều rồi. Ông Nhông trả lời con.
Blang chỉ nấu nồi canh cá. Còn cơm cô đã nấu từ trước. Mùi canh cá lá rơ nhau thơm nồng tỏa khắp nhà. Blang gọi chồng ăn cơm, nhưng Dũng như chẳng nghe thấy gì. Blang thoáng nghĩ “hay là huyên gŭn – hồn ngải bắt anh ta mê chị em Kông, Glơng (tên hai nhân vật nữ xinh đẹp trong sử thi M’nông) rồi nhỉ? Blang mỉm cười, cô không gọi chồng nữa.
*
* *
Tiếng chim đậu trên mái nhà kêu từng hồi làm Dũng không ngủ được nữa. Ánh nắng chiếu qua vách nứa rọi vào cái ché đựng rượu cần phản xạ thành màu trắng ngà, nhìn thật huyền ảo. Blang lại giường đặt hai tay vào người Dũng lay lay và nói:
– Cơm canh nóng em để ở bếp. Anh dậy mà ăn đi!
– Sáng nay trả tiền cho người làm cỏ cà phê. Đợi tí, anh đi cùng, Dũng nói.
– Thôi, anh cứ nằm nghỉ mơ “thế giới đại đồng”, xem tại sao thần Lêt không được con người mời uống rượu là quậy phá ! Nói rồi Blang dắt xe ra khỏi nhà. Dũng đọc mấy câu lời nói vần bằng tiếng M’nông như là nhẩm học thuộc lòng (… Ham yêu tình xa, bỏ tình gần/ Ham yêu chồng xa, bỏ chồng nhà”. Lúc này, Blang đã lên xe đi.
Cha Blang ngồi vót nan nghe Dũng đọc, ông nói:
– Phat doih (luật tục) phạt nặng lắm. Không đủ heo, bò cúng thần đâu.
– Con đùa mà ông! Dũng cười nói.
Ông Nhông không nói gì, lại tiếp tục vót nan.
Blang đi chừng 5 cây số thì đến một cái dẫy cạnh con suối nhỏ. Vợ chồng cô vẫn dành ngày chủ nhật để chăm sóc vườn cà phê, nhưng việc cắt cỏ phải thuê vì có mưa, bốn năm ngày sau cỏ đã mọc um tùm, làm hoa cà phê nở không đều, năng suất cây trồng thấp. Cũng may anh trai con ruột cha mẹ nuôi của Blang để rẻ cho cái xe máy này nên mỗi khi đi đâu xa cũng tiện. Thấy chủ vườn cà phê đến, một người đàn ông chừng hơn 40 tuổi, sống mũi to, tóc quăn, vẻ đon đả, nói:
– Chào cô Blang. Chúng tôi chờ cô lâu quá. Chồng cô không ra chào đồng hương một câu à?
– Chồng em còn đang ngủ bác ạ!
– Chồng cô chả bù cho tôi một tí. Vất vả quá. Người đàn ông nói, môi anh ta cố nở một nụ cười thân thiện, còn mắt thì cứ đảo đi đảo lại. Người đàn ông nói chậm:
– Cỏ ở vườn cà phê nhà cô Blang rậm rạp quá, cắt, nhổ cỏ đau rát cả tay.
– Cỏ ở đây đều thế cả mà bác. Blang nói.
Người đàn ông thản nhiên:
– Biết vậy thì nhận phun thuốc diệt cỏ cho nó nhanh.
Blang phản bác:
– Bác chả nói là phun thuốc sâu độc hại nên không bao giờ làm rồi mà?
Thấy bị đốp chát, người đàn ông đảo mắt liên tục. Hai mắt ti hí của anh ta trông giống như hai đoạn con giun đất. Anh ta tức giận phỉ báng:
– Cô có phải là người M’nông hay giả danh đồng bào?
Blang giễu cột:
– Nhà em hai lần một nửa người M’nông, một nửa người Kinh, bác ạ!
Người đàn ông nhăn nhó:
– Cô dám đùa tôi à?
Blang nói:
– Em không đùa. Cha em là người M’nông, mẹ em là người Kinh. Chồng em là người Kinh, em là người M’nông.
Người đàn ông sầm mặt, buông ra một câu bất lực:
– Tôi chịu cô!
Blang thanh toán cho người đàn ông mũi to đúng như giao kèo. Cô cầm một tờ 50 nghìn đồng đưa cho thằng bé chừng 13 tuổi trong nhóm cắt cỏ. Nó không nhận, Blang bỏ tiền vào túi áo nó. Thằng bé lí nhí nói: “Em cảm ơn chị”.
Trên đường về, còn sớm nên Blang rẽ vào trường thăm cô bạn thân. Vừa thấy Blang, cô bạn reo lên:
– Khao đi! Chồng Blang trúng giải ở Thủ đô!
Nghe không rõ và không hiểu, Blang hỏi:
– Học sinh anh Dũng dạy, trúng giải à?
Cô bạn nói: Không ! Đi hỏi thầy Hiệu trưởng cho rõ hơn. Blang đặt túi rau ở nhà bạn, rồi đi ngay. Thấy cô, ông Hiệu trưởng nói:
– Tôi tính trưa nay đến nhà báo tin vui cho vợ chồng cô. Tiện cô ở đây, nói luôn: Tôi mới gặp anh bạn là phóng viên, nhà ở thị trấn. Anh ấy nói trường ta có người tên là Dũng cùng ông tiến sĩ ở Hà Nội được Giải của một Hội nghiên cứu chuyên ngành. Chúc mừng vợ chồng cô.
Nghe thầy Hiệu trưởng nói, Blang không tin vào tai mình, cô hỏi:
– Có lầm người khác không thầy?
Ông Hiệu trưởng khẳng định:
– Đúng tên người, tên trường, xã, huyện, tỉnh sao nhầm được. Cô cần động viên, giúp chồng nhiều hơn để Dũng làm tốt hơn nữa công tác sưu tầm văn hóa truyền thống của đồng bào.
Blang chào thầy Hiệu trưởng, rồi vội vã lên xe đi về nhà. Cô sống lại cái cảm giác khi nhận được tin mình trúng giải trong kì thi học sinh giỏi của huyện. Nhưng lần này, cái cảm giác đó khó diễn tả hơn, nó lớn hơn, cao xa hơn lần trước. Vừa đến sân chưa kịp dựng xe, Blang gọi chồng, giọng run run:
– Anh trúng giải ở Hà Nội rồi!
Dũng hỏi như người bị hụt hơi:
– Đúng không? Ai nói?
Blang trả lời:
– Đúng mà. Thầy Hiệu trưởng nói.
Khi cùng tiến sĩ Trường hoàn thành bản thảo Văn hóa cổ truyền M’nông, hai người đã nghĩ bản thảo của họ sẽ được Hội đồng chú ý vì các luận điểm đưa ra đều có cơ sở từ hiện thực đời sống văn hóa của đồng bào. Nhưng việc được trao giải thì Dũng chưa dám nghĩ đến. Ngày mai thứ hai, học sinh vẫn tạm nghỉ để Bộ đội biên phòng giúp Nhà trường thay cho xong các tấm tôn bị gió làm xô lệch. Dũng nóng lòng chờ đến sáng mai để ra Bưu điện huyện gọi điện qua số của cơ quan cho anh Trường hỏi xem cặn kẽ thế nào.
Từ nhà Dũng ra thị trấn huyện khoảng hơn 30 cây số, đường khá tốt mà Dũng dắt xe ra khỏi nhà từ lúc 6 giờ kém. Đến Bưu điện, anh chờ gần 1 tiếng đồng hồ.
Nhìn mã vùng, thời lượng cuộc gọi, cô nhân viên Bưu điện hỏi:
– Anh ở Hà Nội vào đây công tác, báo cáo kết quả về cơ quan à?
– Không, tôi dạy học ở Bu Prâng. Dũng thanh toán tiền và lên xe về nhà.
Công trình của Dũng và anh Trường đoạt giải Nhì B. Anh Trường nói khi nhận được phần thưởng anh sẽ gửi Bằng chứng nhận và một nửa số tiền thưởng cho Dũng.
Dũng dừng xe ở một vệt cỏ ven con đường đất đỏ, anh ngả lưng trên bãi cỏ. Bàn tay Dũng vô tình chạm vào cành hoa dại, những cánh hoa màu trắng lả tả rơi và theo gió cuốn vào rừng. “Cậu biết không, giải Nhì B là “khủng” lắm đấy ! Nhiều người làm nghề lâu năm còn chưa đạt được. Tớ biết cậu có năng lực, nhưng nếu không có “bột” thì chúng ta chẳng là gì đâu. Cho tớ gửi lời thăm Blang và cháu bé nhé!”. Nhớ lại lời anh Trường nói qua điện thoại lúc ở Bưu điện, lòng Dũng trào lên niềm hạnh phúc, tự hào, nhưng vẫn xen vào đó nỗi buồn man mát, tủi hờn. Bảo vệ luận văn xong, Dũng và một bạn có danh sách được giữ lại Khoa làm giảng viên. Nhưng cuối cùng Dũng bị loại, vì hết chỉ tiêu. Ngày Dũng quyết định vào Tây Nguyên, đúng là có một chút lãng du của tuổi trẻ, nhưng cái chính là Dũng cần có một việc làm. Anh thấy mình may mắn gặp được Blang, cô như sợi dây kết nối Dũng với các nghệ nhân tài giỏi trong vùng. Nhờ vậy mà anh dần dần khám phá ra các “tảng băng chìm” của kho tàng văn hóa cổ truyền M’nông. Dũng thấy mình đã mang một món nợ với những con người hồn hậu, chân chất, vô tư, trong sáng ở xứ sở này. Những người “con của rừng” đã góp sức vào thành công bước đầu của anh.
Dũng nhớ lại, lúc anh mới vào đây, từ thác Buc So tới Bu Prâng là những ngọn đồi nối tiếp nhau, bao quanh chúng là những cánh rừng. Trong đồi chỉ có một loài cỏ duy nhất là sống được. Ông bà già M’nông nói “từ thời xa xưa nó đã thế, bây giờ là thế, mãi mãi vẫn thế “. Dũng hiểu đó là cảm quan huyền thoại của người M’nông. Cảm quan đó có cơ sở hiện thực nhưng được trí tưởng tượng thêu dệt, mở rộng đến vô cùng. Đã có lần, vào mùa khô, Dũng ngồi trên đồi nhìn cỏ màu vàng êm mượt như thảm nhung dưới bầu trời trong xanh lồng lộng. Một đêm trăng, Dũng và Blang tới một quả đồi ngồi chơi. Vậy mà Dũng vẫn cảm thấy cô đơn bởi cái hư ảo, cái mênh mông vô định của không gian, thời gian và anh như bị rợn ngợp như đứng trước trời đất thuở hồng hoang. Bây giờ ở nhiều chân đồi không còn màu xanh của rừng cây, chỉ có lác đác mấy cây đứng tách biệt. Dường như những cây này đang gắng làm chứng tích của một thuở Rừng Xanh !
Người M’nông coi quan hệ giữa con người – rừng – thần linh là mối quan hệ mật thiết, bền chặt, giúp họ sống ổn định, hài hòa với môi trường, với các đấng siêu nhiên. Trong tâm thức M’nông, thần linh hiển hiện qua tiếng thì thầm của rừng cây, sông suối, đồi núi. Bất cứ ai phá cây rừng không tuân theo tập quán pháp đều bị phạt rất nặng. Tất nhiên không ai có thể cứ khư khư giữ cái cũ. Nhưng Dũng vẫn thấy buồn. Giá mà có cách thức nào đó duy trì tốt hơn môi trường sinh thái và không gian văn hóa thì việc bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống sẽ hiệu quả hơn. Bất giác Dũng mỉm cười vì thấy mình lại đóng vai Đônkisốt và nghĩ Blang đùa anh ngủ mơ chờ “thế giới đại đồng” cũng có phần đúng.
Dũng cho xe đi nhanh hơn, anh sợ vợ ở nhà phải đợi tin và chờ cơm lâu. Xe đến đỉnh một quả đồi, trước mắt Dũng là cây gạo, phần cành hoa nở chi chít nhìn tựa như một quả cầu màu đỏ dưới trời xanh và trên thảm cỏ vàng. Dũng liên tưởng đến thế giới thần tiên trong truyện cổ tích.
Dũng về đến nhà thì đã quá trưa, con gái và bố vợ đã ăn cơm, còn Blang vẫn chờ chồng. Dũng cười rất tươi nói: Được giải Nhì B rồi. Anh Trường hỏi thăm mẹ, con. Blang nhìn chồng như muốn khóc.
Vợ chồng Dũng như đang sống trong mơ, Blang chợt nhớ sáng mai đã phải trả bài kiểm tra cho học sinh. Cô ngồi dậy, đi lấy bài để chấm. Blang đang chăm chú chấm bài, Dũng cứ nhìn cô rồi viết viết, gạch gạch lên giấy, Blang đã nhắc, nhưng Dũng vẫn cứ thế, cô bực tức nói:
– Em có phải người mẫu đâu mà anh cứ nhìn em để vẽ ?
Dũng cười nói:
Vẽ viếc gì đâu, anh đang làm thơ tình. Dũng đưa cho Blang xem bài thơ anh đang viết dở. Blang khẽ đọc: Đôi mắt như ánh bình minh và cũng như chiều về buồn lặng…Cho anh làm làn gió mát theo em/ Nghe mái tóc hát ru lời ca không tắt/ Cho anh là hạt mưa đầu mùa/ Làm dịu đi nỗi nhớ về em/ Và mơn man trên má em nồng… Mắt Blang ánh lên niềm vui. Nhìn Dũng, cô nói:
– Thơ này anh viết về em à ?
Dũng ngạc nhiên hỏi:
– Sao em biết ?
– Hồi học ở Cao đẳng, bọn bạn nói em “lúc vui thì mắt sáng lên, lúc buồn thì mắt sụp xuống”. Bạn em nói không hay bằng thơ của anh đâu !
Dũng nói như để một mình nghe: Sống ở đời không ai muốn khổ cả, nhưng có khi phải khổ người ta mới biết phải làm gì trước giông bão của cuộc sống, biết gượng dậy trong những hoàn cảnh tưởng như không thể. Blang nhìn chồng, cô biết Dũng lại chìm trong suy nghĩ…Blang chấm nốt các bài còn lại.
Dũng sinh ra và lớn lên ở vùng bán sơn địa miền Trung. Làng Dũng có con sông mang tên Nhà Lê chảy qua trước cổng làng. Triền sông là bãi cỏ chăn bò. Chiều chiều đàn bò chen nhau đi trên đường làng…Kỉ niệm tuổi thơ của Dũng gắn nhiều với ông bà ngoại và mẹ. Ông ngoại Dũng rất nghiêm trong nếp nhà, nhưng ông bao dung, độ lượng. Với Dũng, bà ngoại là hiện thân của câu thành ngữ “phúc đức tại mẫu”. Dũng chưa thấy ông bà ngoại nặng lời với nhau bao giờ. Mẹ Dũng là người phụ nữ giàu đức hy sinh. Bố Dũng mất khi anh mới là hài nhi ba tháng, lúc đó mẹ Dũng mới ngoài hai mươi tuổi mà chỉ ở vậy nuôi con. Ngày mẹ Dũng đi xa, lời bà dì khóc “Chị ơi! Thương chị thui thủi nuôi con một mình…” như những cái gai mây chích vào tim anh. Dũng cảm ơn duyên phận đã cho anh có được Blang – kao blang (hoa gạo) ở xứ Bu Prâng này. Dũng biết đây chỉ mới là đoạn đường đầu tiên…
*
* *
Gần một tháng sau, Dũng nhận Bằng chứng nhận trúng giải và tiền thưởng anh Trường gửi. Vợ chồng Dũng tổ chức một bữa liên hoan nhỏ. Họ mời thầy Hiệu trưởng, ba nghệ nhân, cô bạn của Blang, và cha mẹ nuôi nhưng họ bận không đến được. Trong buổi liên hoan, ông Hiệu trưởng mượn câu thành ngữ Việt “Của chồng công vợ” để biểu dương Blang cũng là có ý nhắc nhở Dũng. Blang giật giật áo cha đang ngồi uống rượu cần cạnh bác Klôp, cô nói ý của thầy Hiệu trưởng cho cha nghe, ông Nhông cười mãn nguyện. Khi ông Hiệu trưởng ca ngợi Klôp là nghệ nhân tài giỏi, Blang nói lại lời thầy Hiệu trưởng bằng tiếng M’nông, bác Klôp cười, gương mặt hồn nhiên, thơ ngây như trẻ nhỏ. Bé Mai ngồi xem đi xem lại chiếc ba lô nhỏ xinh mới được bố Dũng mua cho.
Vợ chồng Dũng lấy hơn nửa số tiền thưởng mua muối, bột ngọt, quần áo tặng những người già cả nhất trong bon làng, còn học sinh bị đứt bữa được nhận 10 cân gạo.
Đỗ Hồng Kỳ
Đánh giá bài viết
Bài viết liên quan: